Con người Nam Bộ trong truyện ngắn Trịnh Bửu Hoài

Để hoàn thiện bức tranh về thế giới con người Nam Bộ, Trịnh Bửu Hoài đã vẽ nên những bức chân

dung quái dị, kệch cỡm, xấu xí, méo mó về nhân cách trước sự biến động của xã hội kinh tế thị trường.

Đó là những con người đầy tham vọng về vật chất và tinh thần, tha hóa và biến chất bởi sức mạnh ghê

gớm của đồng tiền. Bên cạnh đó, trang viết của ông cũng dành những khoảng lặng để con người có thể

chiêm nghiệm, suy tư về cuộc đời, nhất là cuộc đời của chính mình, với kiểu con người tự nhận thức và

cô đơn. Tất cả hiện lên một cách sinh động, chân thật để độc giả có thể nhìn nhận một cách đa diện về

con người Nam Bộ thời đương đại.

Con người Nam Bộ trong truyện ngắn Trịnh Bửu Hoài trang 1

Trang 1

Con người Nam Bộ trong truyện ngắn Trịnh Bửu Hoài trang 2

Trang 2

Con người Nam Bộ trong truyện ngắn Trịnh Bửu Hoài trang 3

Trang 3

Con người Nam Bộ trong truyện ngắn Trịnh Bửu Hoài trang 4

Trang 4

Con người Nam Bộ trong truyện ngắn Trịnh Bửu Hoài trang 5

Trang 5

Con người Nam Bộ trong truyện ngắn Trịnh Bửu Hoài trang 6

Trang 6

Con người Nam Bộ trong truyện ngắn Trịnh Bửu Hoài trang 7

Trang 7

pdf 7 trang xuanhieu 6300
Bạn đang xem tài liệu "Con người Nam Bộ trong truyện ngắn Trịnh Bửu Hoài", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Con người Nam Bộ trong truyện ngắn Trịnh Bửu Hoài

Con người Nam Bộ trong truyện ngắn Trịnh Bửu Hoài
 tận hưởng cái 
hạnh phúc tinh thần bất diệt. Nơi đó, con 
người có thể sống bằng tinh anh, tinh hoa, 
thoát khỏi cái vòng luân hồi tuần hoàn của 
sinh-lão-bệnh-tử với quan niệm: “Cuộc đời 
là bể khổ, làm sao mình vui sướng được. 
Mẹ ưu phiền là vì chúng sanh trầm luân 
trong bể khổ, chứ tâm mẹ rất an” (Trịnh 
Bửu Hoài, 1987, tr.14). 
Những con người tham vọng trong 
truyện ngắn Trịnh Bửu Hoài mê mải chạy 
theo những giá trị hư ảo, thường bị cuốn 
theo những guồng quay của thời kim tiền. 
Nhiều khi chính họ lại trở thành nạn nhân 
mà cuộc đời họ gây ra và chuốc nhận. 
Đứng trên phương diện con người cá nhân, 
họ luôn phải trả giá cho những tham vọng 
của mình. Bi kịch cuộc đời họ chính là bài 
học cho những ai quá điên cuồng kiếm tìm 
và chạy theo quyền lợi ảo vọng mà bất 
chấp tất cả. Nhà văn dường như cũng muốn 
đối thoại với người đọc rằng, khát vọng là 
điều đáng trân trọng nhưng quá tham vọng 
mà bất chấp thủ đoạn thì sẽ phải trả giá đắt. 
Bởi danh và lợi không mang lại hạnh phúc 
đích thực cho con người. Ở bất kì thời đại 
nào thì lương tri và đạo đức mới là điều 
đáng được suy tôn; những thứ đi ngược lại 
lương tri và đạo đức đó, dù có nhân danh 
bất cứ quyền lực nào cũng sẽ bị diệt vong. 
2.2. Con người tha hóa trong truyện 
ngắn Trịnh Bửu Hoài 
Trên con đường kiếm tìm và phản ánh 
hiện thực, các tác phẩm đương đại thường 
ghi đậm dấu ấn về khủng hoảng niềm tin 
của con người trong bối cảnh đổ vỡ các 
thang bậc giá trị, sự hỗn loạn của trật tự 
thường hằng. Những tình huống bi hài, 
nghịch dị trở nên phổ biến. Cái đẹp, cái 
thiện dần vắng bóng, thay vào đó là cái 
xấu, cái ác, cái thô kệch.v.v. Cán cân 
thăng bằng giữa các cực xấu – tốt, thiên 
thần – ác quỷ bị phá vỡ trong xã hội hậu 
công nghiệp, dẫn đến sự “rối bời” không 
chỉ trong đời sống vật chất mà còn kéo 
theo cả niềm tin, lẽ sống, lý tưởng. Không 
phải là sự phó mặc, nhưng có lẽ Trịnh 
Bửu Hoài cũng như không ít nhà văn 
đương đại khác đều tin rằng cuộc sống 
vốn không thể khác một khi đồng tiền, địa 
vị, sự xấu xa, độc ác vẫn đang hiện hữu và 
bành trướng, làm tha hóa con người, đưa 
họ xa rời những giá trị đạo đức tốt đẹp, 
khiến cuộc sống bị cuốn vào vòng xoáy 
của luật mạnh được yếu thua. 
Sự tha hóa của con người trong truyện 
ngắn Trịnh Bửu Hoài có những biểu hiện 
khác biệt. Có khi đó là sự thờ ơ, lạnh lùng, 
vô cảm, bất tri, mất nhân tính của con 
người trong truyện ngắn Chim xa cành. 
Tác phẩm đã vạch trần bản chất lòng lang 
dạ sói của một người con đại bất hiếu 
mang tên David Huỳnh. Điểm cách biệt 
giữa thằng Út hiếu thảo, trách nhiệm trong 
gia đình nghèo khó, bần hàn với David 
Huỳnh giàu có, bất nhân bên trời Tây là hai 
chữ “đồng tiền”. Có thể khẳng định, hai 
chữ ấy đã khiến David Huỳnh có thể an 
lòng mà rũ bỏ trách nhiệm, bổn phận của 
LÊ HOÀI HẬN TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN 
121 
một người con khi chứng kiến mẹ mình 
lâm trọng bệnh và nguy kịch: “David 
Huỳnh bỗng khựng lại bên cánh cửa có gắn 
tấm bảng cảnh báo lây nhiễm và nói 
“nô” Anh mở cặp lấy một cọc tiền đưa 
cho bà và quay về Mỹ” (Trịnh Bửu Hoài, 
2004, tr. 92 – 93). Vì hai chữ ấy mà David 
Huỳnh sẵn sàng bán rẻ lương tri, bán nốt 
“phần người” còn sót lại trong hắn để hiện 
nguyên hình “phần con” không hơn, không 
kém. Âu đó là sự tha hóa ghê gớm của 
đồng tiền và chính nó đã lăn tròn và cuốn 
phăng mọi chuẩn mực đạo đức xã hội, làm 
cho con người dần đánh mất lương tri, 
lương năng, không còn chỗ dựa cho sự an 
yên về mặt tinh thần; làm cho con người 
trở nên xơ vữa, mất hết nhân tính, hủy hoại 
tình người. Sự ảnh hưởng tiêu cực của 
đồng tiền còn vươn cái “vòi bạch tuột” của 
mình ra để hút máu con người với tình 
trạng quan liêu, hách dịch, cửa quyền, tham 
nhũng trong Buồn ngủ và khát nước. Thì 
ra, trong mỗi con người đều có một “kẻ 
khác” xấu xa ẩn náu, chờ thời cơ ngoi lên, 
khống chế mọi ý nghĩ, mọi hành vi, làm 
lệch lạc, xói mòn nhân cách. 
Và cũng có khi đó là sự sa đọa về thể 
xác, sự hủy hoại về tinh thần khi chứng 
kiến bi kịch của một gia đình chỉ trong một 
đêm qua truyện ngắn Trong một đêm. Tác 
phẩm này là một sự vỡ mộng về cái đạo lý, 
về các chuẩn mực đạo đức trông đằng xa 
rất kiên cố, vững chắc nhưng lại gần thì lại 
là mảnh vỡ vô cùng mong manh – mong 
manh như tính cách con người, chỉ trong 
một đêm có thể dẫn con người đến địa 
ngục. Đó là bi kịch đau thương nhuốm màu 
dục vọng, nhục dục, xác thịt tầm thường 
trong một gia đình mà bấy lâu nay được 
che đậy rất kỹ, rất kín bằng sự đạo mạo, 
mực thước của con người. Chỉ trong một 
đêm dường như cả gia đình bị lật mặt, cái 
mặt nạ đầm ấm, hạnh phúc đời thường bị 
rơi xuống một cách tàn nhẫn: “Giống như 
Thiện đã ngủ say trong không khí đầm ấm, 
hạnh phúc của gia đình bấy lâu nay mà 
không hay bên cạnh mình còn có người đi 
đêm” (Trịnh Bửu Hoài, 2004, tr. 39). 
Có thể khẳng định, mỗi truyện ngắn 
của Trịnh Bửu Hoài là những nỗi hoang 
mang, ngắc ngoải, đánh mất phương 
hướng, bản ngã của con người khi đứng 
trước xã hội lộn xộn, xô bồ, nhếch nhác, 
kệch cỡm, nhố nhăng. Các tác phẩm của 
ông đã phanh phui, mổ xẻ những cái xấu, 
cái ác cũng như quá trình tha hóa, biến 
dạng của rất nhiều những số phận cá nhân, 
thông qua đó phản ánh bi kịch tha hóa của 
xã hội. Từ phương thức khắc chạm hệ 
thống hình tượng nhân vật tha hóa trong 
truyện ngắn Trịnh Bửu Hoài, có thể nói, 
trên hành trình tìm kiếm ý nghĩa cuộc sống, 
sự vong thân, vong bản của con người thời 
kim tiền là nỗi ám ảnh lớn nhất đối với 
người nghệ sĩ này. Qua đó, nhà văn một 
mặt chỉ ra sự tha hóa, biến chất của con 
người, một mặt kêu gọi con người hãy cứu 
lấy lương tri và bảo toàn nhân cách. Đây là 
“liều vắc-xin” hữu hiệu để đặc trị bệnh chai 
sạn của tâm hồn con người trong sự phát 
triển, đổi thay chóng mặt của đời sống 
đương đại, đồng thời cũng đặt ra những 
câu hỏi lớn về ý nghĩa thật sự của tồn tại, 
của thang bậc giá trị xã hội, nhân sinh. 
2.3. Con người cô đơn trong truyện 
ngắn Trịnh Bửu Hoài 
Kiểu người cô đơn cũng được Trịnh 
Bửu Hoài quan tâm, thể nghiệm. Khảo sát 
truyện ngắn của ông, chúng tôi nhận thấy 
phần lớn những nhân vật nữ trong sáng tác 
của Trịnh Bửu Hoài đều rơi vào trạng thái 
của sự cô đơn. Con người cô đơn trong 
sáng tác của Trịnh Bửu Hoài không phải là 
“những người phụ nữ tắt lửa lòng”, lạnh 
SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY No. 72 (06/2020) 
122 
lùng, thờ ơ, vô cảm trước đàn ông. Càng 
không phải là những người phụ nữ không 
còn cảm xúc yêu đương. Ngược lại, họ đều 
là những người phụ nữ mẫn cảm, khát khao 
tình yêu. 
 Với những con người này, nhu cầu về 
tình cảm cũng như quan niệm về hạnh phúc 
không hề giản đơn. Cô đơn đôi lúc chỉ là 
trạng thái tạm thời trong quá trình họ 
không ngừng tìm kiếm tình yêu và hạnh 
phúc đích thực của đời mình. Vì thế, các 
chân dung con người cô đơn trong sáng tác 
của Trịnh Bửu Hoài thường xoay quanh 
vấn đề tình yêu và hạnh phúc gia đình. Có 
khi họ một mình phải chống chọi với cuộc 
đời đầy rẫy những cạm bẫy xấu xa, đê hèn. 
Trong cuộc đấu tranh không khoan nhượng 
ấy, con người vùng vẫy một cách đau đớn, 
tuyệt vọng. Họ bế tắc, không tìm được lối 
thoát trong công cuộc mưu sinh. Tất cả 
những điều ấy luôn hiện hữu ở cuộc đời 
đầy sóng gió, đầy bi kich của Sương – 
người phụ nữ bị lừa tình, lừa tiền trong tác 
phẩm Vụ án vườn Tao Ngộ: “Sương bước 
ra đường, cô khóc không thành tiếng, lầm 
lũi đi như trốn chạy. Tùng ơi, anh lừa gạt 
em rồi. Như vậy, anh giết chết cuộc đời em 
rồi. Sương vò đầu bức tóc rồi ôm mặt khóc 
nức nở. Sao nghịch cảnh phũ phàng lại cứ 
đến với mình” (Trịnh Bửu Hoài, 2003, tr. 
27). Cũng có lúc, họ cô đơn ngay chính 
trong căn phòng hoa chúc khi hôn nhân 
không xuất phát từ tình yêu. Đó là sự chai 
sạn “tạm thời” về tình cảm, về cảm xúc, về 
lửa lòng của Ni trong truyện ngắn Căn 
phòng hoa chúc cũ. Ni là người sống nội 
tâm, trầm mặc, dịu dàng, ánh mắt, nụ cười 
tươi như cánh hoa hồng buổi sáng. Ni có 
cuộc tình vô cùng lãng mạn, đẹp tựa cổ tích 
với Hoàng. Trái tim Ni như vỡ vụn, như 
thổn thức, đập liên hồi từ khi gặp Hoàng – 
một chàng trai giản dị, khiêm tốn lại lịch 
lãm, hào hoa. Thế nhưng tình yêu của Ni 
say đắm rồi hờ hững, nồng nàn rồi lạnh 
lùng khi Hoàng xuất cảnh theo gia đình và 
bỏ lại Ni với cánh thư thưa dần rồi vắng 
bặt. Và “tôi không tìm được giọt nước mắt 
nào trên khóe mắt Ni, tất cả đã chảy ngược 
vào trong. Nỗi đau của Ni rất mênh mông 
và dữ dội vì có lúc tôi bắt gặp trong đôi 
mắt ấy một màu sương khói” (Trịnh Bửu 
Hoài, 1996, tr. 62). Dường như, trái tim Ni 
đã tắt lửa và từ từ băng giá. Trong lòng Ni 
là một khoảng trống mênh mông, vô định. 
Và cuộc đời Ni như rơi vào vực thẳm, 
không lối thoát. Cái trống rỗng trong lòng 
Ni không còn biên độ, vượt lên trên cái 
giới hạn của không gian khi Ni lấy chồng. 
Khốn khổ cho Ni vì đó là ý muốn của gia 
đình, vì chữ hiếu nên đành chấp nhận nhắm 
mắt đưa chân để bước vào cuộc đời của 
một người mà Ni chưa bao giờ quen biết và 
chẳng một chút rung động, thương yêu. 
Đối với Ni, Tân – chồng Ni, không gợi 
chút cảm xúc yêu thương và chỉ như một 
pho tượng biết đi trong mắt Ni. Tâm hồn 
Ni như hóa đá. Căn phòng hoa chúc – hiện 
thân của tình yêu, hạnh phúc, của sự lãng 
mạn, cuồng nhiệt và say mê đã trở nên lạnh 
lẽo, trống vắng bởi trái tim nguội lạnh của 
Ni. Cuộc đời Ni cứ trải dài miên man, vô 
tận, không lối thoát. 
Cũng có khi, họ cô đơn tột cùng với 
khát vọng sâu kín lấn át lí trí kể cả đạo lí, 
lẽ phải, cái nghĩa tào khang vợ chồng 
trong Khát vọng điên rồ. Khát vọng điên 
rồ là một khát vọng mãnh liệt, cuồng điên, 
một khát khao cháy bỏng và đáng thương 
của một người vợ, một người phụ nữ chưa 
từng được làm mẹ, chưa từng được nghe 
một tiếng gọi thiêng liêng của tình mẫu tử. 
Chính vì cái khát vọng ấy, Hạnh đã đánh 
mất nhân phẩm mình, tính cách mình và có 
thể đánh đổ cả cái hạnh phúc gia đình. 
LÊ HOÀI HẬN TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN 
123 
Cuộc đời Hạnh dường như vô nghĩa, rơi 
vào đáy sâu của sự tuyệt vọng, cô đơn cùng 
cực trong chính cái khát vọng chân chính 
của mình. Và còn đây, một người phụ nữ - 
người nghệ sĩ tài danh trong truyện ngắn 
Tiếng hót trong lồng lại bị đẩy vào vòng 
xoáy không lối thoát của cơm áo gạo tiền. 
Từ một tiếng hát có thể cuốn hút con 
người vào mây trời mưa gió, xô hồn người 
lạc vào cõi đau thương với danh vọng, tiền 
tài đến giọng hát đầy buồn đau, u uất để 
mưu sinh trên ánh đèn sân khấu khi nghệ 
thuật cải lương đã qua đi thời vàng son. 
Người nghệ sĩ ấy sống mòn với những sự 
giả tạo trên sân khấu bởi những lớp phấn 
son, trang phục lộng lẫy, uy nghi tráng lệ. 
Sau bức màn nhung, người nghệ sĩ này bị 
cuộc đời ném đi không thương tiếc. 
Từ những hình ảnh ấy, độc giả có thể 
nhận thấy có nhiều con đường dẫn người 
phụ nữ tới cuộc sống lẻ loi, trơ trọi. Đôi 
khi là sự xô đẩy của số phận như Ni trong 
Căn phòng hoa chúc cũ, đôi khi lại chính 
là sự lựa chọn của bản thân họ như người 
nghệ sĩ trong Tiếng hót trong lồng, hay 
cũng có thể, cô đơn là cách thức phản 
kháng theo một kiểu rất riêng của người 
phụ nữ đối với những bất công và ngang 
trái ở đời như Sương trong Vụ án vườn Tao 
Ngộ. Sau những nếm trải cay đắng trong 
tình yêu kết hợp với những bất công thuộc 
về số phận, những người phụ này thường 
lựa chọn con đường ra đi và sự cô đơn 
chính là cách thức phản kháng theo kiểu 
riêng của họ. 
3. Kết luận 
Có thể nói, truyện ngắn của Trịnh Bửu 
Hoài đã phôi thai nên những con người có 
phần dị thường với đầy đủ những trò hề về 
nhân cách. Trong những bức tranh khiếm 
khuyết về nhân cách ấy, hiện lên một cách 
ghê tởm những con người đầy tham vọng, 
bất chấp thủ đoạn xấu xa, bỉ ổi, vô liêm sỉ 
cùng những con người tha hóa, biến chất 
trên mọi phương diện. Nhưng bên cạnh đó, 
Trịnh Bửu Hoài còn dành hẳn một “không 
gian” để bộc lộ sự cảm thương sâu sắc của 
mình đối với những thân phận phụ nữ cô 
đơn, bé nhỏ, gặp nhiều bất hạnh, thăng 
trầm, sóng gió trong cuộc đời. 
Qua kết quả khảo sát về các kiểu con 
người trong truyện ngắn Trịnh Bửu Hoài, 
chúng ta thấy có sự dịch chuyển từ những 
kiểu con người gắn với những giá trị văn 
hóa truyền thống đến những con người tha 
hóa, biến chất. Có lẽ, cái căn nguyên, gốc 
rễ, cội nguồn của sự thay đổi, dịch chuyển 
ấy là do sự tác động của nền kinh tế thị 
trường, của xu hướng toàn cầu hóa và đặc 
biệt là quá trình đô thị hóa nông thôn Nam 
Bộ đã làm thay đổi hệ hình giá trị và quan 
niệm đạo đức. Trong bối cảnh đó, con 
người bị cuốn vào vòng xoáy bất tận của 
thiện – ác, hiện đại – truyền thống; vật chất 
– tinh thần.v.v. 
Nhìn tổng thể, các kiểu con người này 
cũng nằm trong dòng chảy của văn xuôi 
sau thời kỳ đổi mới. Cảm hứng thế sự hóa 
đã dần chiếm lĩnh và thay thế cho cảm 
hứng lãng mạn và sử thi của giai đoạn văn 
học trước đó. Văn học sau 1986 đến nay 
không còn xây dựng nhân vật theo kiểu 
đơn tuyến, chú trọng vào cái bên ngoài, mà 
có xu hướng khắc họa con người với chiều 
sâu nội tâm bên trong, với những chiều 
kích đa dạng, phức tạp, qua đó khái quát 
nên bức tranh đa tuyến về tính cách. Lẽ cố 
nhiên, các dạng thức con người nêu trên 
cũng xuất hiện nhiều trong truyện ngắn 
Nam Bộ nói riêng và truyện ngắn Việt 
Nam nói chung. Điều đó cho thấy sự gặp 
gỡ, giao thoa về mặt tư tưởng của Trịnh 
Bửu Hoài với các ngòi bút đương đại về 
vấn đề mang tính phổ quát, cấp thiết của 
SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY No. 72 (06/2020) 
124 
nhân sinh. 
Suy cho cùng, nhân vật là một trong 
những khía cạnh tiêu biểu của thế giới 
nghệ thuật. Nó không thể tách rời các 
thành tố khác như cốt truyện, cảm hứng, 
ngôn ngữ, kết cấu.v.v. Do vậy, tìm hiểu các 
kiểu dạng con người trong truyện ngắn 
Trịnh Bửu Hoài tất yếu phải được đặt trong 
hệ thống của nó. Đây là một gợi mở thú vị 
cho những nghiên cứu tiếp theo chuyên sâu 
và hệ thống hơn về thi pháp trong truyện 
ngắn Trịnh Bửu Hoài. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
Trần Mạnh Hùng. (2011). Khảo sát đặc điểm truyện ngắn đồng bằng sông Cửu Long từ 
1975 đến nay. Luận án Tiến sĩ, Đại học Sư phạm TP. Hồ Chí Minh. 
Lê Thị Hường. (1994). Quan niệm con người cô đơn trong truyện ngắn hôm nay. Tạp chí 
Văn học, Số 2. 
Trịnh Bửu Hoài. (1987). Con chim tắm cát. NXB Văn nghệ Châu Đốc. 
Trịnh Bửu Hoài. (1996). Cái đẹp của ảo tưởng. NXB Đồng Nai. 
Trịnh Bửu Hoài. (2003). Vụ án Vườn Tao Ngộ. NXB Văn nghệ Châu Đốc. 
Trịnh Bửu Hoài. (2004). Chim xa cành. NXB Văn nghệ TP. Hồ Chí Minh. 
Nguyễn Văn Kha. (2007). Đổi mới quan niệm về con người trong truyện Việt Nam 1975 – 
2000. NXB Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh. 
Tôn Phương Lan. (2001). Một vài suy nghĩ về con người trong văn xuôi thời kì đổi mới. 
Tạp chí Văn học, số 9. 
Nguyễn Kim Nương. (2005). Truyện ngắn An giang 1975 – 2000, Những thành tựu chủ 
yếu. NXB Văn nghệ An Giang. 
Ngày nhận bài: 12/5/2020 Biên tập xong: 15/6/2020 Duyệt đăng: 20/6/2020 

File đính kèm:

  • pdfcon_nguoi_nam_bo_trong_truyen_ngan_trinh_buu_hoai.pdf