Chức năng xã hội trong nghi lễ vòng đời của người Khmer ở Nam Bộ
Nghi lễ vòng đời của người Khmer ở Nam Bộ được thực hiện dành cho mỗi cá
nhân kể từ khi chuẩn bị sinh ra đến lúc qua đời, gồm các nghi lễ như liên quan
đến việc sanh nở, đầy tháng, xuất gia, vào bóng mát, hôn lễ, chúc thọ và tang lễ.
Mỗi nghi lễ đều thực hiện nhiều nghi thức quan trọng. Những nghi thức này
không chỉ dành cho cá nhân người thụ hưởng nghi lễ mà còn biểu thị các chức
năng xã hội nhằm duy trì sự toàn vẹn hệ thống xã hội tộc người. Các chức năng
xã hội được thể hiện qua nghi lễ vòng đời của người Khmer gồm: biểu thị chuẩn
mực của cộng đồng xã hội, mang tính giáo dục và cố kết cộng đồng, giữ gìn văn
hóa truyền thống của tộc người. Bài viết dựa trên quan điểm chức năng xã hội
của Alfred Radcliffe - Brown (1881-1955) để phân tích nguồn tư liệu thứ cấp và
sơ cấp do chúng tôi thu thập trong các cuộc điền dã tại một số địa bàn trong thời
gian từ 2017 - 2019.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Tải về để xem bản đầy đủ
Tóm tắt nội dung tài liệu: Chức năng xã hội trong nghi lễ vòng đời của người Khmer ở Nam Bộ
Pho-lâu). Vị Achar nối một sợi chỉ trắng từ đầu giường người hấp hối đến khay lễ (Tùm-rông) đặt hướng đông bắc. Sau đó, thỉnh các vị tăng đến tụng kinh. Con cháu ngồi xung quanh giường cùng lắng nghe và hồi hướng quả phước cho người hấp hối. Nghi thức này nhằm trợ duyên, chuyển nghiệp cho người sắp qua đời. Khi người hấp hối trút hơi thở cuối cùng, gia đình thỉnh chư tăng đến tụng kinh để đưa người chết về cảnh giới an lạc (Oi-Pô-Tức). Sau đó, gia đình tiến hành các nghi thức tiếp theo trong tang lễ. Vị Achar được mời đến để chọn ngày, giờ lành t chức tang lễ và thực hiện nghi thức trong lễ tang. Tang lễ của người Khmer ở Nam Bộ thường diễn ra trong 3 ngày 2 đêm tính từ ngày chết). - Đầu tiên là nghi thức khâm liệm. Gia đình mời các vị tăng đến tụng kinh khâm liệm và nhập quan. Vị Achar và các vị đạo tỳ (neak-phlúc) dùng vải trắng bọc thi thể người quá cố và dùng dây vải trắng buộc thành 5 đoạn trên thi thể, tượng trưng cho 5 sự ràng buộc của đời người, gồm: con, cháu, vợ chồng, tài sản, cha mẹ; nhưng các dây này đều không được thắc nút, nhằm tượng trưng cho sự buông bỏ những ràng buộc để thanh thản về với cõi an lành. Sau đó, vị Achar, các đạo tỳ thực hiện nghi thức quán tưởng (Boong-quâl-pô-pưl) cho người quá cố với các điều cần nhớ như quán tưởng về Phật, pháp, tăng, về bố thí, về trì giới, về thân, về sự chết Tiếp theo, thi thể được đưa vào áo quan. Trong áo quan có đặt 3 nẹp bằng ván hoặc bằng tre, tượng trưng cho 3 cõi: cõi người, cõi trời và cõi niết bàn; và làm bệ đỡ thi hài. Kế tiếp, con cháu thắp nhang, tay cầm miếng trầu cau phát nguyện từ biệt rồi đặt vào quan tài, vị Achar đóng nắp quan tài lại, kết thúc nghi thức khâm liệm. - Tiếp theo là nghi thức xin phép. Vị Achar chuẩn bị các mâm lễ cúng đất đai th công (Kroong Pea Li), cúng Neak Ta để xin phép được t chức tang lễ; kế đó cúng và mời chư thiên (Tho-vai Đoong Quai Tê Vđa) đến chứng minh, hồi hướng phước báu cho người chết; tiếp đến là nghi thức lễ bái tam bảo, thỉnh các vị tăng tụng kinh cầu siêu, cầu an và thuyết pháp. - Nghi thức động quan và đưa tang: Đến giờ động quan, vị Achar thỉnh các vị tăng làm lễ cầu siêu; sau đó thực hiện lại nghi thức quán tưởng để bắt đầu động quan và đưa tang. Đội hình đưa tang được xếp theo thứ tự: kiệu Á Phi Thom nơi vị sư trụ trì ngồi) đi trước, kế đến là người thân bưng di ảnh, tiếp theo là người đội lễ vật (Tean Tbông), rồi đến người bắn cung người tu trước lửa), người rải nếp rang, bông gòn bách leach), người thân đội dây tranh đan So-bâu Pho- lăng) được nối từ kiệu Á Phi Thom đến quan tài; đi sau cùng là xóm giềng. TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI số 7 (263) 2020 61 - Nghi thức hỏa táng: Khi đoàn đưa tang đến đài hỏa táng, vị Achar và đoàn đạo tỳ khiêng quan tài đi quanh đài hỏa táng 3 vòng, rồi đặt quan tài trên đài hoả táng. vị sư trụ trì tụng kinh để quán tưởng về sự vô thường của đời người. Sau khi tụng xong, vị Achar châm lửa. Lúc này người tu trước lửa (Buốs Múc Pho-lơng) sẽ phải ngồi thiền ngay đài hỏa thiêu để thực hiện nghi thức quán tưởng, hồi hướng phước báu nhằm tăng quả phước cho người mất được tái sanh vào cõi an lành. Người này phải ngồi cho đến khi thu cốt của người quá cố. Khi thu cốt về, gia đình t chức đại lễ cầu siêu Ma ha Chhac Băng Skôl), lễ trai tăng Đa Chho-lon Bun) để hồi hướng phước báu cho người đã mất. Sau đó, vị Achar thực hiện nghi thức qua thời (Chho-lon Brah Kal), mang ý nghĩa thời gian tang lễ đã kết thúc. 3. CHỨC NĂNG CỦA NGHI LỄ VÒNG ĐỜI TRONG ĐỜI SỐNG XÃ HỘI CỦA NGƯỜI KHMER Ở NAM BỘ Theo quan điểm của Radcliffe-Brown: “Chức năng của mỗi tập tục là vai trò mà nó nắm giữ trong việc duy trì sự toàn vẹn của hệ thống xã hội” dẫn theo Robert Layton, 1997: 28). Ông nhấn mạnh, khi nghiên cứu tập tục, cần phân tích chức năng xác định vai trò của chúng trong sự ổn định của xã hội (Radcliffe-Brown, 1951). Đối với người Khmer, sự n định đó được thể hiện cụ thể qua việc xác định sự chuẩn mực của cộng đồng, sự giáo dục của thế hệ, tính cố kết tộc người và giữ gìn, bảo lưu văn hóa truyền thống tộc người. * Quy chuẩn của cộng đồng qua nghi lễ vòng đời Quy chuẩn của cộng đồng được quy định bởi giá trị văn hóa và giá trị tôn giáo của tộc người. Người Khmer ở Nam Bộ hiện nay có trên 90% theo Phật giáo Nam tông, do đó, các quy chuẩn của cộng đồng đều dựa trên quy chuẩn của Phật giáo Nam tông, trong đó có nghi lễ đời người. Mỗi nghi lễ được diễn ra đều có vai trò của các vị tăng và Achar. Trong đó, các vị tăng giữ vai trò thực hiện nghi lễ, hoằng pháp, như: tụng kinh chúc phúc, cầu an, cầu siêu; còn Achar giữ vai trò t chức, lo việc hướng dẫn và thực hành nghi lễ mang tính “mật pháp” của tôn giáo, như: trì chú, cột chỉ tay, gọi hồn, cúng dâng lễ, quán tưởng... Những điều này đã trở thành nguyên tắc và “chuẩn mực” phải tuân thủ theo, nếu không sẽ bị cộng đồng người Khmer ở Nam Bộ xem là “lệch chuẩn”. Bên cạnh quy chuẩn tôn giáo, giá trị đạo đức và quy chuẩn cộng đồng cũng được xem trọng khi tiến hành các nghi lễ liên quan đến đời người. Điều này được khẳng định qua nghi lễ xuất gia, vào bóng mát và hôn lễ của từng cá nhân. Trong đó, lễ xuất gia làm giới tử của nam giới không phải hướng đến việc đi tu trọn đời nhưng nếu đều này xảy ra là vinh dự của gia đình và cộng đồng) mà hướng đến việc được học giáo lý, đạo đức và lối sống theo nguyên tắc của Đức Phật để trở thành con người có ích cho cộng đồng, xã hội. Một nam giới đã từng xuất gia làm giới tử luôn được DANH LÙNG – CHỨC NĂNG XÃ HỘI TRONG NGHI LỄ 62 cộng đồng xem trọng, các gia đình có con gái luôn muốn gả con của họ cho những người này. Hoặc lễ vào bóng mát của nữ giới cũng nhằm để khẳng định đức hạnh của người con gái, vì đã được người mẹ giáo dục tử tế. Hiện nay, lễ vào bóng mát không còn duy trì trong cộng đồng người Khmer ở Nam Bộ, song việc giáo dục đức hạnh dành cho các cô gái trong gia đình luôn được các bà mẹ chú trọng. Điều này thể hiện qua hành vi của cô gái trong cuộc sống, như: sự lễ phép, khiêm nhường, cung kính ở chỗ đông người, nơi trang nghiêm; khả năng quán xuyến công việc nhà, tài may vá, thêu thùa, làm bánh Đó chính là đức hạnh theo quy định của cộng đồng, và các gia đình có con trai luôn muốn cưới những cô gái như vậy. Trong hôn lễ, hàng loạt nghi thức diễn ra đều hướng đến sự chuẩn mực về đạo đức của đôi nam nữ. Lễ cưới chỉ diễn ra khi đôi nam nữ này chưa có quan hệ tính dục trước hôn nhân; nếu đã quan hệ, gia đình chỉ t chức mâm cơm và tuyên bố với họ hàng về sự thành hôn của đôi trai gái này. Các nghi thức trong lễ cưới như mở c ng rào, xin vào nhà, cắt tóc, cắt hoa cau, truyền đèn cầy, chung giường tại nhà gái, ngoài việc mang ý nghĩa phong tục, còn mang hàm ý “khai mở lần đầu tiên” trong quan hệ vợ chồng của đôi nam nữ. Mọi thứ đều mới, đều phải được xin phép và được đồng ý, được sự hướng dẫn cụ thể tận tình của những người đi trước có kinh nghiệm. Màu sắc và lễ vật trong đám cưới cũng thể hiện sự mới mẽ, trong sạch. Đây được xem là quy chuẩn bắt buộc về đạo đức mà cộng đồng luôn hướng đến. Ngoài ra, quy chuẩn báo hiếu, tạ ơn được thể hiện qua lễ chúc thọ và tang lễ. Việc thực hiện nghi thức tắm gội, tặng phẩm vật, chúc phúc, chúc bình an dành cho người thụ hưởng nghi lễ chúc thọ đều hướng đến ý nghĩa báo hiếu và đền ơn, đáp nghĩa của con cháu dành cho cha mẹ, của đệ tử dành cho thầy. Bởi, cha mẹ và thầy đã tốn nhiều công sức trong việc sinh thành, dưỡng dục. Các nghi thức: cầu siêu, quán tưởng, tu trước lửa trong tang lễ nhằm hướng đến sự báo hiếu của người sống dành cho người quá cố, mong muốn giảm bớt tội nghiệp, tăng phần quả phước để được tái sinh vào cõi an lành. Như vậy, quy chuẩn của cộng đồng về tín ngưỡng, đạo đức luôn được thể hiện một cách rõ ràng qua việc thực hiện các nghi lễ liên quan đến đời người. Đây là một trong những chức năng xã hội quan trọng mà nghi lễ vòng đời thể hiện nhằm duy trì sự toàn vẹn của hệ thống xã hội trong cộng đồng người Khmer ở Nam Bộ. Từ chức năng khẳng định chuẩn mực của cộng đồng nêu trên, nghi lễ vòng đời còn mang tính giáo dục trong cộng đồng. Tính giáo dục đó được thể hiện qua vai trò và vị thế của người thụ hưởng nghi lễ mà gia đình, cộng đồng xã hội dành cho họ để chính bản thân họ cũng như những người khác trong * Sự giáo dục trong cộng đồng Khmer Nam Bộ qua nghi lễ vòng đời TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI số 7 (263) 2020 63 cộng đồng, đặc biệt là các thế hệ kế tiếp học tập, noi theo. Với người Khmer, cách giáo dục tốt nhất là noi theo tấm gương mẫu mực của ông bà, cha mẹ. Do đó, việc thực hiện các nghi lễ vòng đời người theo đúng quy chuẩn của cộng đồng cũng là cách mà cha mẹ muốn giáo dục con cái. Việc được cộng đồng xem trọng sau khi hoàn thành các nghi lễ này là thành quả trong giáo dục không chỉ dành cho người thụ hưởng nghi lễ mà còn dành cho các thế hệ tiếp theo sau trong cộng đồng. tố văn hóa tộc người và văn hóa tôn giáo chi phối. Trong các nghi lễ vòng đời, người Khmer thường có hành vi cúng dường và đón nhận sự chúc phúc từ các vị tăng; vì quan niệm của người Khmer, cúng dường chư tăng và nhận sự chúc phúc sẽ được phước báu, được an vui, hạnh phúc không chỉ ở kiếp hiện tại mà còn ở cả kiếp sau. Ngoài ra, khi tham dự nghi lễ, những người trong cộng đồng còn góp công sức và vật chất lẫn tinh thần cho cá nhân và gia đình thực hiện nghi lễ để sau đó, các cá nhân và gia đình này đáp lễ lại khi những gia đình khác thực hiện nghi lễ liên quan. Điều này thể hiện tinh thần đoàn kết, hòa hợp của cộng đồng tộc người trong khu vực. Ngoài ra, qua quan sát chúng tôi nhận thấy, nghi lễ vòng đời của người Khmer còn thể hiện sự bình đẳng giữa các cá nhân và gia đình trong cộng đồng, (nếu các cá nhân và gia đình đó tuân thủ đúng chuẩn mực quy định của cộng đồng). Các nghi thức được t chức trong nghi lễ đều được tuân thủ theo nguyên tắc đã được “chuẩn hóa” trong cộng đồng, như là một “thiết chế xã hội” hoàn chỉnh. Tất cả điều này đã tạo nên sự cố kết cộng đồng rõ rệt qua các nghi lễ vòng đời được thực hiện của người Khmer. - Thể hiện sự giữ gìn văn hóa truyền thống: Điều này được khẳng định qua việc duy trì tập quán văn hóa của cộng đồng. Chứng kiến nghi lễ vòng đời người được diễn ra trong nhiều gia đình Khmer ở Nam Bộ, chúng tôi Hoặc khi thực hiện các nghi lễ như hôn lễ, chúc thọ, tang lễ những nghi thức đi kèm trong từng nghi lễ đều hướng đến tính giáo dục về đạo đức, lối sống. Nói cách khác, nghi lễ liên quan đến đời người của cộng đồng Khmer ở Nam Bộ đã thể hiện chức năng giáo dục đạo đức, lối sống theo quy chuẩn của tôn giáo và văn hóa tộc người rất rõ. - Thể hiện sự cố kết cộng đồng: Qua việc tham dự các nghi lễ vòng đời được t chức trong cộng đồng người Khmer ở Nam Bộ, chúng tôi nhận thấy mặc dù đây là các nghi lễ liên quan trực tiếp đến cá nhân và gia đình của người thụ hưởng nghi lễ, nhưng đều có sự tham gia tích cực của các thành viên trong cộng đồng, nhất là đối với lễ xuất gia tu học, hôn lễ, tang lễ. Điều này khẳng định, tính cố kết trong cộng đồng Khmer ở Nam Bộ được thể hiện rất cao, do bởi yếu * Sự cố kết và giữ gìn văn hóa của cộng đồng Khmer Nam Bộ qua nghi lễ vòng đời DANH LÙNG – CHỨC NĂNG XÃ HỘI TRONG NGHI LỄ 64 nhận thấy, sự lặp đi lặp lại của từng nghi thức khi thực hiện nghi lễ. Phỏng vấn nhiều đối tượng tại cộng đồng đều cho thấy họ giải thích ý nghĩa, chức năng của từng nghi thức trong nghi lễ, kể cả sự cảm nhận của bản thân về nghi lễ tương đối giống nhau khi cho rằng chúng thể hiện chuẩn mực, sự giáo dục, truyền thống văn hóa của tộc người. Họ cũng cho rằng sẽ cố gắng duy trì các nghi thức và ý nghĩa của các nghi thức này trong việc thực hiện nghi lễ để bảo lưu văn hóa truyền thống của tộc người. Tuy nhiên, có những nghi lễ, nghi thức đã bị mai một hoặc không còn. Nguyên nhân là do môi trường sống thay đ i nên một số nghi thức bị lược bỏ. Thực tế, sự mất đi hoặc bỏ bớt một số nghi thức trong các nghi lễ vòng đời vẫn không làm mất đi các chức năng vốn có của nghi lễ. Do đó có thể khẳng định, nghi lễ vòng đời của người Khmer ở Nam Bộ hiện nay vẫn thể hiện đầy đủ những chức năng xã hội quan trọng. 4. KẾT LUẬN Nghi lễ vòng đời của người Khmer ở Nam Bộ được thể hiện cụ thể qua các nghi lễ như lễ liên quan đến sinh nở, đầy tháng, xuất gia, vào bóng mát, hôn lễ, chúc thọ, tang lễ. Các nghi lễ này thường được thực hiện với nhiều nghi thức thể hiện các quan niệm về văn hóa, ý thức và tôn giáo của người Khmer. Việc thực hiện các nghi lễ không chỉ có ý nghĩa đối với đời sống của cá nhân người thụ hưởng nghi lễ mà còn có chức năng xã hội đối với cộng đồng như thể hiện các quy chuẩn của cộng đồng, giáo dục thế hệ sau, cố kết và giữ gìn văn hóa truyền thống. Đây là những chức năng quan trọng nhằm duy trì sự toàn vẹn hệ thống xã hội của người Khmer ở Nam Bộ. CHÚ THÍCH (1) Tu i hạ lạp là tu i thực hiện an cư kiết hạ. Sau khi trải qua một mùa an cư kiết hạ được xem là một tu i hạ lạp. TÀI LIỆU TRÍCH DẪN 1. Danh Lùng. 2017, 2018, 2019. Tư liệu điền dã và tư liệu phỏng vấn người Khmer tại các tỉnh, thành ở Tây Nam Bộ. 2. Đặng Thị Kim Oanh. 2008. Hôn nhân gia đình của người Khmer ở Đồng bằng sông Cửu Long. Luận án Tiến sĩ Dân tộc học. Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn - Đại học Quốc gia TPHCM. 3. Mai Thị Ngọc Diệp. 2008. Tang ma của người Khmer An Giang. Luận văn Thạc sĩ ngành Văn hóa học. Trường Đại học Khoa học xã hội và nhân văn TPHCM. 4. Radcliffe-Brown A.R. 1940. On Social Structure. Journal of the Royal Anthropological Institute of Great Britain and Ireland. 5. Radcliffe-Brown A.R. 1951. The Comparative Method in Social Anthropology. Journal of the Royal Anthropological Institute of Great Britain and Ireland. TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI số 7 (263) 2020 65 6. Radcliffe-Brown A.R. 1957. A Natural Science of Society. Glencoe, Illinois: The Free Press. 7. Robert Layton. 1997. An Introduction to Theory in Anthropology. Cambridge University press. 8. T ng cục Thống kê Việt Nam. 2019. Bảng số liệu kết quả điều tra dân số và nhà ở thời điểm 0 giờ ngày 01 tháng 4 năm 2019. Hà Nội. truy cập ngày 15/4/2020. 9. Thạch Xuyên Ba. 2015. Pithi Chuol mlop - lễ vào bóng mát. https://baotintuc.vn/dan- toc-mien-nui/pithi-chuol-mlop-le-vao-bong-mat-20151008142931954.htm, truy cập ngày 20/12/2019. 10. Trần Văn B n. 1999. Một số lễ tục dân gian người Khmer Đồng bằng sông Cửu Long. Hà Nội: Nxb. Văn hóa Dân tộc. 11. Trần Văn B n. 2002. Phong tục và nghi lễ vòng đời người Khmer Nam Bộ. Hà Nội: Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội.
File đính kèm:
- chuc_nang_xa_hoi_trong_nghi_le_vong_doi_cua_nguoi_khmer_o_na.pdf