Cảm nhận của sinh viên về giảng viên giảng dạy các môn kỹ năng Tiếng ngành Ngôn ngữ Anh hình thức đào tạo Từ xa, Vừa làm Vừa học tại Trường Đại học Mở Thành phố Hồ Chí Minh
Những năm gần đây, nhu cầu học ngoại ngữ của những người
lao động tăng cao. Nếu như trước đây, học ngoại ngữ chỉ tập trung ở
Thành phố Hồ Chí Minh thì thời gian gần đây nhu cầu này bắt đầu
phát triển mạnh ở các tỉnh thành khác. Điều này tạo cho các cơ sở đào
tạo nhất là Trường Đại học Mở Thành phố Hồ Chí Minh với mạng
lưới liên kết đào tạo tại các tỉnh rất phát triển một cơ hội không nhỏ.
Tuy nhiên, phát triển đào tạo thì yếu tố chất lượng đào tạo là một điểm
quan trọng, trong đó giảng viên là yếu tố có thể được xem là then chốt
của chất lượng đào tạo.
Nghiên cứu này nhằm xem xét cảm nhận, đánh giá của sinh
viên về các môn học “kỹ năng Tiếng” ngành Ngôn ngữ Anh hình thức
đào tạo Từ xa, Vừa làm Vừa học tại Trường Đại học Mở Thành phố
Hồ Chí Minh. Kết quả nghiên cứu nhằm giúp cho giảng viên có căn
cứ khoa học để nâng cao chất lượng giảng dạy các môn “kỹ năng
Tiếng” từ đó góp phần nâng cao chất lượng đào tạo ngành Ngôn ngữ
Anh hình thức đào tạo Từ xa, Vừa làm Vừa học tại Trường Đại học
Mở Thành phố Hồ Chí Minh.
Kết quả nghiên cứu cho thấy sinh viên hài lòng với các môn
học liên quan đến kỹ năng tiếng ở mức độ khá cao (điểm trung bình
trên 4,5) và không có sự khác biệt trong cảm nhận của sinh viên về
giảng viên ở các địa điểm học tập khác nhau. Điều đó cho thấy giảng
viên giảng dạy các môn kỹ năng tiếng ngành ngôn ngữ Anh dù dạy ở
đâu, hình thức nào thì chất lượng cũng như nhau.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Tải về để xem bản đầy đủ
Tóm tắt nội dung tài liệu: Cảm nhận của sinh viên về giảng viên giảng dạy các môn kỹ năng Tiếng ngành Ngôn ngữ Anh hình thức đào tạo Từ xa, Vừa làm Vừa học tại Trường Đại học Mở Thành phố Hồ Chí Minh
GV sẵn lòng trả lời các câu hỏi thắc mắc của SV về nội dung học tập. 1,00 5,00 4,5153 0,73698 GV khuyến khích SV đặt câu hỏi và làm việc nhóm, thúc đẩy sinh viên tự học, tự nghiên cứu. 1,00 5,00 4,5186 0,69411 GV công bằng trong đánh giá quá trình kết quả học tập. 1,00 5,00 4,4881 0,78617 GV đảm bảo giờ lên lớp. 1,00 5,00 4,5153 0,75521 GV sẵn lòng hỗ trợ sinh viên học tập ngoài giờ lên lớp. 1,00 5,00 4,4746 0,77275 GV có tác phong sư phạm đúng mực. 1,00 5,00 4,5322 0,73643 Theo Anh/Chị, môn học này phù hợp với ngành học. 1,00 5,00 4,5932 0,65773 Theo Anh/Chị, Giảng viên phụ trách môn học này đảm bảo tiêu chuẩn giảng viên. 1,00 5,00 4,5492 0,73549 Anh/Chị cảm thấy hài lòng với môn học này. 1,00 5,00 4,6000 0,65673 Anh/Chị cảm thấy thích học các môn kỹ năng Tiếng. 1,00 5,00 4,5220 0,76844 Số quan sát = 295 Bùi Đ. C. Thành và Nguyễn T. Ái Duy. Tạp chí Khoa học Đại học Mở Thành phố Hồ Chí Minh, 15(4), 42-53 49 Bảng 6 Kết quả kiểm định thang đo Tiêu chí (các phát biểu) GT trung bình Hệ số tương quan biến tổng Hệ số Cronbach's Alpha nếu bỏ biến Nội dung giảng dạy phù hợp với mục tiêu và đề cương môn học. 66,2508 0,649 0,468 Nội dung môn học được cập nhật, phù hợp với nhu cầu công việc. 66,2644 0,593 0,472 Thời lượng giảng dạy mỗi môn là phù hợp. 66,2983 0,599 0,470 GV trình bày bài giảng rõ ràng và dễ hiểu. 66,2746 0,589 0,470 GV giảng dạy thu hút và hấp dẫn. 66,2847 0,629 0,465 GV quan tâm đến việc tiếp thu bài giảng của sinh viên. 66,2644 0,650 0,466 GV có cho bài tập để chấm điểm tham gia hoạt động trong lớp. 66,2203 0,550 0,477 GV quản lý tốt sinh viên và tạo môi trường học tập tích cực trong trong buổi học. 66,2373 0,655 0,468 GV sẵn lòng trả lời các câu hỏi thắc mắc của SV về nội dung học tập. 66,1797 0,584 0,476 GV khuyến khích SV đặt câu hỏi và làm việc nhóm, thúc đẩy sinh viên tự học, tự nghiên cứu. 66,1763 0,561 0,480 GV công bằng trong đánh giá quá trình kết quả học tập. 66,2068 0,654 0,468 GV đảm bảo giờ lên lớp. 66,1797 0,647 0,470 GV sẵn lòng hỗ trợ sinh viên học tập ngoài giờ lên lớp. 66,2203 0,631 0,470 GV có tác phong sư phạm đúng mực. 66,1627 0,572 0,477 Hế số Cronbach's Alpha = 0,978 GT trung bình Hệ số tương quan biến tổng Hệ số Cronbach's Alpha nếu bỏ biến Theo Anh/Chị, môn học này phù hợp với ngành học. 13,6712 0,870 0,932 Theo Anh/Chị, Giảng viên phụ trách môn học này đảm bảo tiêu chuẩn giảng viên. 13,7153 0,879 0,928 Anh/Chị cảm thấy hài lòng với môn học này. 13,6644 0,873 0,931 Anh/Chị cảm thấy thích học các môn kỹ năng (nghe nói, đọc hiểu, ) 13,7424 0,879 0,930 Hệ số Cronbach's Alpha = 0,947 50 Bùi Đ. C. Thành và Nguyễn T. Ái Duy. Tạp chí Khoa học Đại học Mở Thành phố Hồ Chí Minh, 15(4), 42-53 Trong 19 biến quan sát khi thực hiện kiểm định thang đo, có 1 biến quan sát “Giảng viên (GV) giới thiệu chi tiết đề cương môn học” có hệ số tương quan biến tổng chỉ có 0,170 <0,3 do đó biến này bị loại bỏ. Điều này cũng phù hợp vì thực tế, sinh viên không quan tâm nhiều đến đề cương môn học nên việc GV giới thiệu “chi tiết” về đề cương môn học không được sinh viên đồng ý cao. Điều này có thể là do đặc thù của hình thức ĐTTX, VLVH nên người học ít quan tâm vấn đề này. Còn lại, tất cả các thang đo đều đạt yêu cầu về tương quan biến tổng và hệ số Cronbach’s Alpha cũng khá cao. Do đó, thang đo sử dụng phù hợp và có thể tin cậy. Bảng 7 Kết quả kiểm định sự khác biệt giữa các địa điểm học tập Tiêu chí Tổng df Trung bình nhóm Giá trị F Mức ý nghĩa (Sig,) Theo Anh/Chị, môn học này phù hợp với ngành học Khác nhóm 0,495 1 0,495 1,144 0,286 Cùng nhóm 126,692 293 0,432 Tổng 127,186 294 Theo Anh/Chị, Giảng viên phụ trách môn học này đảm bảo tiêu chuẩn giảng viên Khác nhóm 0,952 1 0,952 1,765 0,185 Cùng nhóm 158,085 293 0,540 Total 159,037 294 Anh/Chị cảm thấy hài lòng với môn học này Khác nhóm 0,994 1 0,994 2,314 0,129 Cùng nhóm 125,806 293 0,429 Tổng 126,800 294 Anh/Chị cảm thấy thích học các môn kỹ năng (nghe nói, đọc hiểu, ) Khác nhóm 0,637 1 0,637 1,080 0,300 Cùng nhóm 172,969 293 0,590 Tổng 173,607 294 Theo kết quả phân tích (Bảng 7), sinh viên đều nhận định chất lượng giảng dạy của giảng viên các môn “Kỹ năng Tiếng” không có sự khác biệt giữa các địa điểm giảng dạy và mức độ hài lòng của sinh viên cũng như nhau. Điều này cho thấy, giảng viên dù thực hiện giảng dạy tại cơ sở chính của Trường hay địa điểm liên kết ở các tỉnh đều đảm bảo chất lượng như nhau. 5. Kết luận và khuyến nghị 5.1. Kết luận Nghiên cứu ban đầu gồm có 19 biến quan sát (thang đo likert 5 mức độ) và một số thông tin cá nhân sinh viên tham gia khảo sát). Kết quả nghiên cứu cho thấy, thang đo thiết kế cho phiếu khảo sát đảm bảo độ tin cậy. Qua kết quả thống kê cho thấy, sinh viên không quan tâm đến việc “Giảng viên có giới thiệu chi tiết đề cương môn học” hay không. Những điểm mà sinh viên quan tâm nhất (giá trị trung bình cao nhất) là: “GV sẵn lòng trả lời các câu hỏi thắc mắc của SV về nội dung học tập.”; “GV khuyến khích SV đặt câu hỏi và làm việc nhóm, thúc đẩy sinh viên tự học, tự nghiên cứu.”; “GV đảm bảo giờ lên lớp.’; “GV có tác phong sư phạm đúng mực.”; “GV công bằng trong đánh giá quá trình kết quả học tập.”. Dựa vào kết quả nghiên cứu và kinh nghiệm giảng dạy các môn “Kỹ năng Tiếng” của nhóm tác giả, chúng tôi đề xuất một số khuyến nghị nhằm giúp Bùi Đ. C. Thành và Nguyễn T. Ái Duy. Tạp chí Khoa học Đại học Mở Thành phố Hồ Chí Minh, 15(4), 42-53 51 chúng tôi và nhóm giảng viên tham gia giảng dạy các môn kỹ năng Tiếng ngành Ngôn ngữ Anh có thể nâng cao hơn nữa chất lượng giảng dạy các môn này, từ đó giúp Nhà trường nâng cao chất lượng giảng dạy ngành Ngôn ngữ Anh hình thức ĐTTX, VLVH trong thời gian tới. 5.2. Khuyến nghị Dựa trên kết quả của bài nghiên cứu và kinh nghiệm giảng dạy, nhóm nghiên cứu đưa ra một số khuyến nghị nhằm nâng cao chất lượng giảng dạy hệ Từ xa (TX) và Vừa làm vừa học (VLVH) dành cho giảng viên (GV) tại Trường Đại học Mở Thành phố Hồ Chí Minh. Trước hết, nội dung môn học cần được đảm bảo ở tính thống nhất và sự phù hợp. Trong quá trình giảng dạy, GV cần giảng nội dung của giáo trình sát với đề cương môn học, cũng như mục tiêu đã đề ra. Đề cương môn học được xem như “dàn ý”, được xây dựng nhằm làm nền tảng triển khai lượng kiến thức cho từng buổi dạy, cũng như cung cấp thông tin cần thiết cho GV phụ trách môn và SV theo học, nghiên cứu môn học, từ đó đảm bảo người dạy và người học không bị xa rời yêu cầu của môn học trong quá trình môn học được triển khai dạy – học. Đồng thời, việc triển khai môn học sát với đề cương môn học còn giúp GV và SV dễ đối chiếu và kiểm tra chéo, hạn chế hiện tượng dạy lan man kiến thức, ra đề kiểm tra và đánh giá sai quy chuẩn (đối với GV) hoặc làm sai yêu cầu của GV đối với SV). Bên cạnh tính thống nhất thì nội dung môn học cần được đảm bảo yếu tố phù hợp với thực tiễn. Giáo viên, và cả sinh viên, thường xuyên rà soát và đối chiếu nội dung môn học với những quy chuẩn chuyên môn hiện hành và nhu cầu thực tiễn của xã hội, để đề xuất và thực hiện những điều chỉnh, cập nhật kịp thời, giúp môn học thực sự hữu ích trong thực tiễn, tránh hiện tượng “học một đằng, làm một nẻo”. Thứ hai, phương thức truyền đạt nội dung bài giảng cần được thực hiện hiệu quả và chuyên nghiệp. Hiệu quả công việc luôn là yếu tố hàng đầu, vì thế GV cần thường xuyên tự theo dõi quá trình giảng dạy trên lớp và ngoài lớp, ghi nhận những chỗ ưu và nhược trong cách thức giảng dạy mỗi bài học để phát huy ưu điểm, hạn chế và điều chỉnh nhược điểm trong giảng dạy, góp phần nâng cao chất lượng bài giảng. Một bộ phận GV kiên quyết bảo vệ quan điểm cá nhân, quy đổi mọi thất bại trong giảng dạy là do SV yếu kém, không thực hiện theo yêu cầu của GV, nhưng chính những GV này lại không dám nhìn nhận hoặc chưa thể nhận ra sự yếu kém lại nằm ở cách truyền tải nội dung bài giảng của họ. Ví dụ như khi SV học môn Nghe – Nói mà thực tế SV vào lớp học chỉ toàn Nghe chứ không được tạo điều kiện cho Nói, vì GV chỉ giảng bài thao thao bất tuyệt; hay khi SV học môn Viết nhưng GV lại dành quá ít cơ hội cho SV viết bài, cũng như không sửa bài chi tiết cho SV. Đặc biệt là trong thời đại số hóa, có rất nhiều ứng dựng miễn phí cũng như trả phí hỗ trợ công việc dạy và học, thì GV nên dành thời gian để tìm hiểu và thử nghiệm một số ứng dụng, để chọn lọc và mang vào lớp học, giúp công việc giảng dạy được đơn giản hóa và tiết kiệm thời gian. Thứ ba, GV cần quản lí lớp học chặt chẽ và hiệu quả. Quản lí lớp học tốt đồng nghĩa với việc chất lượng giáo dục được đảm bảo. Nhìn chung, thiết lập an ninh trong các ứng dụng dạy học online để hạn chế rủi ro bị tin tặc tấn công, phá hoại. Với vai trò là GV thì người dạy cần chia sẻ những điều này với SV để tạo nên một lớp học online an toàn. Thứ tư, GV cần tổ chức những hoạt động để gắn kết GV – SV và SV – SV. Các hoạt động giáo dục mang tính tích cực sẽ không chỉ phát triển năng lực SV mà còn giúp SV phát triển phẩm chất, năng lực cá nhân, cũng như tạo dựng một môi trường giáo dục lành mạnh, an toàn. Về phía GV, GV cần thể hiện sự thân thiện và khả năng lắng nghe đối với nhưng tâm tư, nguyện vọng của SV trong môn học nói riêng, và trong những khía cạnh khác. Một cuộc họp ngắn với thời lượng khoảng 1 tiết học tại lớp, hoặc dài hơn, cũng nhưng những “buổi hội thảo chuyên đề” để SV có thể chia sẻ về những điều băn khoăn, lo lắng, hoặc khó khăn, cũng như hiểu rõ hơn về những yêu cầu của GV và Nhà trường. GV cũng có thể đưa ra một số câu hỏi thảo luận để dẫn dắt các SV còn 52 Bùi Đ. C. Thành và Nguyễn T. Ái Duy. Tạp chí Khoa học Đại học Mở Thành phố Hồ Chí Minh, 15(4), 42-53 e ngại, ví dụ “Theo bạn, một bài viết tốt cần từ vựng hay ngữ pháp?”, “Khi nói tiếng Anh, bạn thấy khó khăn nhất là chỗ nào?. Ngoài điều đó ra, đâu là khó khăn nữa?”. Nếu có thêm thời gian, GV nên tổ chức một số hoạt động ngoài giờ học, ví dụ như dẫn dắt SV đi tham quan khu di tích, đi làm tình nguyện, .... và yêu cầu sau kết thúc hoạt động, SV sẽ viết ra những cảm nghĩ về chuyến đi, hoặc nêu ra chỗ hài lòng hoặc chưa hài lòng về chuyến đi đó. Những hoạt động này vừa giúp SV học được kiến thức, vừa thắt chặt mối quan hệ GV-SV, SV-SV, dần dần các mối quan hệ này sẽ tạo ra được môi trường học tích cực, hạn chế các yếu tố tiêu cực. Thứ năm, GV cần không ngừng trao dồi, nâng cao chuyên môn để đáp ứng nhu cầu xã hội thời hiện đại. Ngày nay, trong lĩnh vực giáo dục đang diễn ra những thay đổi rất lớn, dẫn tới những yêu cầu ngày càng cao về kiến thức và kĩ năng, đòi hỏi người GV phải nỗ lực vươn lên rất nhiều để thích ứng. GV cần dành ra khoảng thời gian thích đáng dành cho việc học tập, tự bồi dưỡng thì mới đáp ứng được những thay đổi này. Bên cạnh hiện tượng SV ngồi nhầm lớp, thì cũng có hiện tượng GV đứng sai lớp. Đối với những lớp thiên về kiến thức và kĩ năng tiếng, GV cần thường xuyên luyện tập những thành tố của ngôn ngữ mà GV giảng dạy: phát âm, từ vựng, ngữ pháp, và kĩ năng thực hành tiếng; đồng thời GV cần thường xuyên cập nhật các kiến thức mới nhất liên quan chuyên môn giảng dạy, nghiên cứu, cũng nhưng phải tự mình trải nghiệm những kiến thức đó để GV nhận biết được chỗ dễ, khó trước khi giảng dạy cho SV, từ đó lập nên định hướng giảng dạy phù hợp. Ngoài ra. Giảng viên cũng cần học hỏi cách thức ứng dụng những công cụ hỗ trợ giảng dạy mới, nhằm nâng cao hiệu suất truyền tải kiến thức cho SV. 5.3. Hạn chế và hướng nghiên cứu tiếp Nghiên cứu chỉ dừng ở phương pháp thống kê mô tả và chỉ giới hạn trong các môn “kỹ năng Tiếng”. Mô hình nghiên cứu chưa có do chưa có cơ sở lý luận khoa học vững chắc. Tuy nhiên, nghiên cứu này là tiền đề quan trọng để các nghiên cứu tiếp theo có thể hoàn thiện hơn bằng cách khắc phục các hạn chế vừa nêu trên. Với kinh nghiệm giảng dạy các môn “Kỹ năng Tiếng” còn hạn chế của nhóm tác giả, nên các khuyến nghị đưa ra có thể chưa hoàn chỉnh và phù hợp với tất cả các giảng viên tham gia giảng dạy các môn kỹ năng Tiếng ngành Ngôn ngữ Anh. Tuy nhiên, kết quả nghiên cứu có thể nâng cao hơn nữa chất lượng giảng dạy các môn này, từ đó góp phần giúp Nhà trường nâng cao chất lượng giảng dạy ngành Ngôn ngữ Anh hình thức ĐTTX, VLVH trong thời gian tới. Tài liệu tham khảo Bouzidi, H. (2009). Between the ESP Classroom and the Workplace: Bridging the Gap. English Teaching Forum, No 3. Hoàng, T. M. N. & Nguyễn, T. K. (2016). Phân tích các nhân tố tác động đến động lực học tập của sinh viên kinh tế Trường Đại học Cần Thơ. Tạp chí Khoa học Trường Đại học Cần Thơ, 46(d), 107-115. Hutchinson, T. & Water, A. (1987). English for Specific Purposes: A Learning centred Approach. Cambridge: CUP. Lee, W. R. (1979). Language Teaching Games and Contexts. Oxford University Press. Locke, J. (2002). The Law of Nature. In Political Writings. Cambridge Texts in the History of Political Thought. Ed. Mark Goldie. CUP: Cambridge, 2002. Luka, I. (2009). Development of Students’ English for Specific Purposes. Competence in Tourism Studies at tertiary Level. English for Specific Purposes World, Issue 4 (25), Volume 8. Online Journal for Teachers at retrieved on 12 March 2010 Bùi Đ. C. Thành và Nguyễn T. Ái Duy. Tạp chí Khoa học Đại học Mở Thành phố Hồ Chí Minh, 15(4), 42-53 53 Lưu, H. V. (2017). Động cơ học tập ngoại ngữ thứ hai - tiếng Trung Quốc của sinh viên ngành Ngôn ngữ Anh, Trường Đại học Ngân hàng Thành phố Hồ Chí Minh. Tạp chí Nghiên cứu Nước ngoài, 33(2) 146-154. Maslow, A. H. (1943). A theory of human motivation. Psychological Review, 50(4), 370–96. Myles. F. (2016). Second language acquisition (SLA) research: its significance for learning and teaching issues, https://www.llas.ac.uk/resources/gpg/421 Nguyễn, X. L. (2013). Tương quan giữa hứng thú học tiếng Anh với một số yếu tố tác động và dự báo mức độ hứng thú học tiếng Anh của học sinh trung học cơ sở. Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, 29(1), 26-32. Phan, H. T. & Nguyễn, T. Q. L. (2011). Các yếu tố ảnh hưởng đến thái độ học tập của sinh viên Trường Đại học Đà Lạt. Tạp chí Phát triển Khoa hoc và Công nghệ, 14(Q2), 89-96. Rixon, S. (1981). How to use games in language teachinh. Macmillan Education. Savas, B. (2009). Role of Functional Academic Literacy in ESP teaching: ESP Teacher Training in Turkey for Sustainable Development. The Journal of International Social Research. Volume 2/9. Widdowson, H. G. (1978). Teaching Language as Communication. London: OUP Widdowson, H.G. (1981). English for Specific Purposes: Criteria for Course Design in English for Academic and Technological Purposes, Eds. L. Selinker, E. Tarone, and V. Hanzeli Rowley. Mass; Newburry Zhang, Zuocheng (2007). Towards an Integrated Approach to Teaching Business English: A Chinese Experience. English for Specific Purposes, 26(4), 399-410.
File đính kèm:
- cam_nhan_cua_sinh_vien_ve_giang_vien_giang_day_cac_mon_ky_na.pdf