Các nguyên nhân mắc bệnh của tù nhân ở nhà tù Côn Đảo giai đoạn 1946-1954

Nhà tù Côn Đảo được tiến hành xây dựng từ năm 1862, ngay sau khi Pháp xác

lập việc đô hộ đối với 3 tỉnh miền Đông của Nam Kỳ. Đây là một trong những

nhà tù đầu tiên và có quy mô lớn nhất ở miền Nam mà thực dân Pháp xây dựng

để giam giữ những thành phần bị coi là chống đối, đe dọa tiến trình “khai sáng

văn minh cho các dân tộc dã man” của nước Pháp. Nhà tù Côn Đảo được gọi là

“địa ngục trần gian” vì chế độ giam cầm khắc nghiệt, chế độ lao động cực khổ

và những hình thức kỷ luật, tra tấn, đánh đập tù nhân hết sức dã man, hàng

ngàn tù nhân bệnh tật liên miên. Trong bài viết này tác giả phân tích tình hình tù

nhân mắc bệnh giai đoạn 1946 - 1954 để có thể thấy thêm một khía cạnh “địa

ngục” ở nhà tù Côn Đảo.

Các nguyên nhân mắc bệnh của tù nhân ở nhà tù Côn Đảo giai đoạn 1946-1954 trang 1

Trang 1

Các nguyên nhân mắc bệnh của tù nhân ở nhà tù Côn Đảo giai đoạn 1946-1954 trang 2

Trang 2

Các nguyên nhân mắc bệnh của tù nhân ở nhà tù Côn Đảo giai đoạn 1946-1954 trang 3

Trang 3

Các nguyên nhân mắc bệnh của tù nhân ở nhà tù Côn Đảo giai đoạn 1946-1954 trang 4

Trang 4

Các nguyên nhân mắc bệnh của tù nhân ở nhà tù Côn Đảo giai đoạn 1946-1954 trang 5

Trang 5

Các nguyên nhân mắc bệnh của tù nhân ở nhà tù Côn Đảo giai đoạn 1946-1954 trang 6

Trang 6

Các nguyên nhân mắc bệnh của tù nhân ở nhà tù Côn Đảo giai đoạn 1946-1954 trang 7

Trang 7

Các nguyên nhân mắc bệnh của tù nhân ở nhà tù Côn Đảo giai đoạn 1946-1954 trang 8

Trang 8

Các nguyên nhân mắc bệnh của tù nhân ở nhà tù Côn Đảo giai đoạn 1946-1954 trang 9

Trang 9

pdf 9 trang xuanhieu 3060
Bạn đang xem tài liệu "Các nguyên nhân mắc bệnh của tù nhân ở nhà tù Côn Đảo giai đoạn 1946-1954", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Các nguyên nhân mắc bệnh của tù nhân ở nhà tù Côn Đảo giai đoạn 1946-1954

Các nguyên nhân mắc bệnh của tù nhân ở nhà tù Côn Đảo giai đoạn 1946-1954
 tinh thần tù nhân 
Lao động khổ sai là một hình thức bóc 
lột sức lực người tù, đó là một hoạt 
động cụ thể phản ánh quan điểm “lấy 
chiến tranh nuôi chiến tranh” của 
những kẻ âm lược. Ở Côn Đảo một 
hệ thống hơn 20 sở chuyên môn 
được xây dựng khắp nơi để khai thác 
sức tù: Sở Muối, Sở Tiêu, Sở Củi, sở 
Lò Gạch, Sở Lò Vôi, Sở Chuồng Bò, 
Sở Rẫy, Sở Chỉ Tồn, Sở Bản Chế, Sở 
Lưới Mỗi sở chuyên môn được bố 
trí thành những kíp tù để lao động khổ 
sai. Định mức lao động khổ sai của tù 
nhân được quy định rất cao, vượt khỏi 
khả năng và điều kiện lao động thực 
tế tại Côn Đảo. Rất nhiều tù nhân bị 
kỷ luật, bị đánh, bị giết vì không hoàn 
thành định mức lao động khổ sai trong 
thời gian này. 
Tù nhân đi lao động khổ sai ngày 2 
buổi, trưa và tối về lại khám, chỉ một 
số rất ít tù nhân đi lao động khổ sai ở 
 a khám giam như là kíp kéo cây, kíp 
phục vụ duy tu ngọn hải đăng ở hòn 
Bãi Cạnh, hay kíp đốn củi, kíp làm 
đường ra Bến Đầm thì ở lại trong các 
khám đã được xây dựng sẵn ở đó và 
chịu sự giám sát của lực lượng gác 
ngục. 
Nhiều công việc khổ sai hết sức cực 
khổ đối với tù nhân. Tháng 10/1949 tại 
Sở Củi (Coupe de bois) có 76 tù nhân, 
nhà tù quy định mỗi tù nhân phải đốn 
5 tấc củi/ngày, cả Sở Củi phải nộp 
38m
3
 củi/ngày, 1.140m3 củi/tháng. 
“Sản lượng củi khai thác được trong 
tháng 10/1949 là 729m
3
, số lao động 
đốn củi là 76 tù nhân” (Assitance 
Medicale de Poulo Condore, 1949, hồ 
sơ E03/272). Năm 1952 sản lượng vôi 
nung của Sở Lò vôi là 240 tấn, “sản 
lượng vôi trong năm là 240 tấn, vừa 
đủ cho mục đích của nhà tù” 
(Direction des Iles du Pénitencier de 
Poulo - Condore, 1952, hồ sơ số G80-
113), với 240 tấn vôi nung thì kíp tù 
lấy san hô phải mang về trên dưới 
400 tấn san hô, trừ đi những ngày 
nước lớn hoặc mưa bão không khai 
thác được thì bình quân mỗi ngày đi 
làm bất kể mưa nắng, kíp tù hơn 50 
người phải mang về giao nộp khoảng 
hơn 13 tấn san hô/ngày. Lao động 
khổ sai nặng nhọc đã bào mòn thân 
xác tù nhân, nhiều tù nhân suy kiệt 
trầm trọng về thể lực, cơ thể không đủ 
sức đề kháng cũng là một trong 
những nguyên nhân dẫn đến dễ mắc 
bệnh tật. 
Thứ hai, chế độ ăn, mặc của tù nhân 
thiếu thốn 
Chế độ ăn của tù nhân khác ở nhà tù 
Côn Đảo nhìn trên giấy tờ cũng khá 
tốt, mỗi ngày người tù được 700 gram 
gạo đỏ, 10 gram đường, 20 gram 
 TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI số 3 (259) 2020 
48 
muối, 200 gram cá khô, 10 gram 
tương, 50 gram đỗ xanh, 20 gram mỡ, 
20 gram nước mắm và mỗi tuần được 
150 gram thịt bò, 120 gram thịt heo. 
Tuy nhiên chế độ ăn này chỉ thấy trên 
giấy, thực tế thì chưa một người tù 
nào bị giam giữ ở đây có được một 
bữa ăn như vậy (Sud Vietnam, 
Direction des finaces, Order de 
Recette, 1952). Tù nhân hàng ngày 
chỉ được ăn lưng bát cơm gạo xấu, 
một ít cá khô mục đã để trong kho ẩm 
ướt có khi cả nửa năm. Cá khô thì 
chính quyền Nam phần giao cho các 
tỉnh Bạc Liêu, Sóc Trăng mua của tư 
nhân với giá rẻ mạt, ai bỏ giá rẻ nhất 
thì trúng thầu cung cấp cá cho nhà tù. 
Tù nhân liên tục đấu tranh đòi cải 
thiện bữa ăn, tuy nhiên tình hình 
chẳng được thay đổi gì, mãi tới tháng 
3/1954 mới thấy Giám đốc Tài chính 
của chính quyền Nam phần gửi cho 
tỉnh trưởng Bạc Liêu một bức điện nói 
về vấn đề này “Tôi báo tin cho ông rõ, 
mấy lần tỉnh Bạc Liêu gửi khô lên Sài 
Gòn lại không gặp tàu đi Côn Đảo. Số 
khô đó phải bị dự trữ lại tại kho vật 
liệu trong một thời gian rất lâu, có khi 
đến gần hai tháng. Đến khi có tàu thì 
khô đã cũ và phần nhiều không dùng 
được” (Giám đốc Tài chính, 1954, hồ 
sơ số G84-114). Tuy nhiên, bức điện 
này chưa kịp được phúc đáp thì 
những người tù đã uống tàu rời khỏi 
“địa ngục trần gian Côn Đảo”. Bức 
điện thể hiện sự “quan tâm” này của 
ông Giám đốc Tài chính chỉ là hình 
thức vì sự thật là chính quyền Nam 
phần cũng đã biết rõ và để ngoài tai 
việc này. Không chỉ ăn uống thiếu 
thốn mà quần áo cũng hết sức hạn 
chế, mỗi tù nhân quanh năm chỉ có 
một manh chiếu rách, một bộ quần áo 
cụt tay mỏng tang không đủ để họ 
chống chọi với những cơn gió biển 
lạnh buốt trong những đêm đông. Lao 
động cực nhọc, ăn uống kham khổ 
cộng với sự thiếu thốn quần áo trong 
những ngày giá rét là những nguyên 
nhân làm suy kiệt sức lực tù nhân, tạo 
thuận lợi cho bệnh tật gia tăng. 
Thứ ba, chế độ giam cầm hà khắc, 
khám giam chật hẹp, ẩm mốc, dơ bẩn 
Nhà tù Côn Đảo được thực dân Pháp 
xây dựng năm 1862 trên trảng đất dài 
bằng phẳng nằm giáp biển ở phía 
đông của hòn Côn Lôn Lớn. Nhà tù 
được xây dựng trong một khoảng thời 
gian rất dài và qua nhiều giai đoạn lịch 
sử. Thời kỳ 1946 - 1954 hệ thống nhà 
tù Côn Đảo có 3 Banh, mỗi banh gồm 
nhiều phòng giam có kích thước lớn, 
bé khác nhau. Hầu hết các phòng 
giam đều được xây dựng rất kiên cố, 
tường dày 60cm đến 80cm, mỗi 
phòng có 2 lớp cửa, xung quanh 
phòng giam là một dãy bệ i măng ây 
cao 1m làm chỗ ngủ cho người tù, 
nhà vệ sinh không có cửa được đặt 
trong một góc phòng giam. Tùy vào 
diện tích của phòng giam và tùy vào 
từng thời điểm nhà tù bố trí số lượng 
tù nhân trong mỗi phòng. Nhìn chung 
số lượng tù nhân trong mỗi phòng 
giam là rất đông, có nhiều phòng giam 
chứa hơn 100 tù nhân. 
Nhà tù thiết lập chế độ giam giữ tù 
nhân hết sức nghiêm ngặt, đối với 
những người mang án tử hình bị đưa 
HỒ VIẾT HÙNG – CÁC NGUYÊN NHÂN MẮC BỆNH CỦA 
49 
vào giam cấm cố trong khám tử hình 
ở Banh I. Ngoài tù nhân khám tử hình 
bị biệt giam thì vào đầu năm 1951 
giám đốc nhà tù La phốt lấy 3 khám 8, 
9, 10 thiết lập khu biệt lập ở Banh II 
để giam giữ những thành phần tù 
nhân bị coi là chống đối, vi phạm nội 
quy hay lãnh đạo tù nhân đấu tranh 
đòi quyền lợi. Thực chất đó là cái cớ 
để nhà tù đẩy tù nhân vào khu biệt lập, 
thiết lập một biện pháp trừng phạt với 
tù nhân, cái chính yếu phía sau là 
giám đốc nhà tù muốn thiết lập lại chế 
độ cặp rằng, đưa tù thường phạm lên 
làm cặp rằng cai quản tù nhân ở các 
khám tù, tước đi sự lãnh đạo của tù 
kháng chiến. Khu biệt lập là nơi để 
giam riêng lực lượng những người tù 
kháng chiến có ảnh hưởng đối với tù 
nhân. Hơn 200 tù nhân bị liệt vào 
thành phần nguy hiểm và bị đẩy vào 
giam trong 3 khám ẩm thấp, chật chội 
ở khu biệt lập Banh II, thực hiện chế 
độ giam cầm cấm cố. Trong bản báo 
cáo gửi giới hữu trách năm 1952 
Giám đốc nhà tù Côn Đảo Jarty đã 
thừa nhận việc giam giữ cấm cố đối 
với những tù nhân này: “Khoảng 200 
tù nhân, những cá nhân lãnh đạo 
nguy hiểm đã phải cách ly và không 
thể sử dụng họ vào bất cứ công việc 
gì” (Direction des Iles du Pénitencier 
de Poulo - Condore. 1952, hồ sơ số 
G80-113: 4). Chế độ cấm cố tù nhân 
rất khắc nghiệt và tàn ác dẫn đến 
phần lớn tù nhân sau một thời gian bị 
giam giữ cấm cố ở khu biệt lập này 
đều bị bệnh trầm trọng như phù thủng, 
lao, kiết lỵ, ghẻ... hành hạ. Tháng 
7/1954 trước khi được trao trả tự do 
những người tù đã viết Bản án xâm 
lược Pháp tố cáo chế độ giam cầm hà 
khắc “Khu biệt lập mà nhà tù dựng lên 
từ tháng 3/1951 chỉ hơn 1 năm trời 
mà 9 người bỏ mạng, 31 người mắc 
bệnh lao do bác sĩ ác nhận” (Phòng 
Tuyên huấn Côn Đảo, 1954: 17). 
Điều kiện vệ sinh rất kém, trong phòng 
giam mùi ẩm mốc, mùi hôi thối, thiếu 
ánh sáng là những điều kiện thuận 
lợi cho vi khuẩn gây bệnh. Giám đốc 
nhà tù Côn Đảo Jarty trong bản báo 
cáo năm 1952 đã thừa nhận tình trạng 
tồi tệ của Banh III: “Banh III được xây 
dựng ở một nơi không tốt, vào mùa 
mưa từ tháng 5 đến tháng 11, sân là 
một cái ao lớn, nước không thể dùng 
được cho sinh hoạt hàng ngày” 
(Direction des Iles du Pénitencier de 
Poulo - Condore, 1952: 6). 
3.2. Lực lượng y tế và trang thiết bị 
khám, chữa bệnh của nhà tù Côn 
Đảo giai đoạn 1946 - 1954 thiếu hụt 
Từ khi tái chiếm lại nhà tù năm 1946, 
Giám đốc nhà tù Côn Đảo đầu tiên 
trong giai đoạn này là Gimbe đã cho 
sửa chữa lại bệnh á, đồng thời đề 
nghị giới chức điều động lực lượng y 
tế ra làm nhiệm vụ khám, chữa bệnh 
cho viên chức nhà tù, gia đình vợ con 
viên chức và tù nhân bệnh nặng. Trên 
thực tế, lực lượng y tế ở bệnh xá nhà 
tù Côn Đảo chủ yếu là để phục vụ 
công tác khám chữa bệnh cho giám 
thị và gia đình giám thị, đối với tù 
nhân thì nhà tù sử dụng chính lực 
lượng tù để làm nhiệm vụ y tế như 
cấp phát thuốc, tiêm, chỉ những người 
tù bệnh nặng mới được lên điều trị ở 
 TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI số 3 (259) 2020 
50 
trạm xá y tế và được bác sĩ chữa trị. 
Nguồn lực y tế hạn hẹp, trang thiết bị 
khám chữa bệnh thiếu thốn, chính 
sách thăm khám, điều trị sức khỏe 
cho tù nhân cộng với thái độ làm việc 
hời hợt, đối phó của lực lượng y tế là 
một nguyên nhân dẫn đến nhiều dịch 
bệnh bùng phát ở nhà tù Côn Đảo 
trong giai đoạn này. 
Bệnh á Côn Đảo từ năm 1946 đến 
1954 chỉ có 6 nhân viên y tế gồm 1 
bác sĩ người Âu, 1 nữ hộ sinh, 3 y tá 
và 1 điều dưỡng tất cả đều là người 
Việt. Cho dù số lượng tù nhân sau 
năm 1950 tăng lên nhiều, có lúc tới 
hơn 2.500 người nhưng lực lượng 
nhân viên y tế vẫn không thay đổi, chỉ 
dao động từ 5 đến 6 người “Tháng 
1/1950 bệnh á nhà tù có bác sĩ quân 
đội Delabroise, y tá trưởng Lê Công 
Thanh, y tá Trần Văn Minh, Nguyễn 
Ngọc Hạnh, hộ sinh Phùng Thị Sanh”. 
Trong các báo cáo y tế, bác sĩ trưởng 
bệnh á Côn Đảo luôn đề cập đến vấn 
đề này, “Tháng 4/1953 bình quân 1 
bác sĩ khám cho 2.313 lượt bệnh 
nhân và 1 y tá điều trị cho 578 lượt 
người”. 
Bác sĩ người Âu đầu tiên ở nhà tù 
Côn Đảo trong giai đoạn 1946 - 1954 
là bác sĩ quân y Darble, đầu năm 
1948 bác sĩ Darble chuyển về Sài Gòn, 
bác sĩ trung úy Charles ra thay. Tháng 
11/1949 bác sĩ Charles được điều 
chuyển về Sài Gòn, bác sĩ quân đội 
Delabroise ra thay thế và được chỉ 
định làm trưởng trạm y tế. Ngày 
31/7/1951 bác sĩ Dương Thục Huy từ 
Chợ Lớn ra thay bác sĩ Delabroise, 
đây là người Việt duy nhất giữ vị trí 
bác sĩ trưởng, cùng ra với bác sĩ Huy 
trong tháng 7 còn có y tá trưởng Lù 
Văn Sanh ra thay thế y tá trưởng Lê 
Công Thanh được điều chuyển về Sài 
Gòn “Bác sĩ Dương Thục Huy thay thế 
bác sĩ Delabroise từ ngày 31/7/1951. 
Y tá Lù Văn Sanh thay thế y tá trưởng 
Lê Công Thanh ngày 17/7/1951” 
(Rapport d’assistance medicale et 
d’action sociale, hồ sơ d30-11). Tháng 
11/1952 y tá Nguyễn Văn Tân được 
điều ra tăng cường cho bệnh xá nhà 
tù Côn Đảo khi số lượng tù nhân ở 
đây đã vượt trên 2.000 người. Tháng 
12 năm 1952 bác sĩ quân đội Rozieres 
được điều ra làm trạm trưởng y tế ở 
nhà tù Côn Đảo thay thế bác sĩ 
Dương Thục Huy hết thời gian làm 
việc theo quy định và chuyển về Sài 
Gòn. Bác sĩ Rozieres làm việc nhiệt 
tình và trách nhiệm, nhiều tù nhân có 
cảm tình với ông. 
Không chỉ thiếu hụt nhân viên y tế mà 
điều lo ngại nhất lúc bấy giờ của nhà 
tù là thiếu trang thiết bị, nhất là thuốc 
để điều trị bệnh. Bệnh xá nhà tù chỉ có 
chủ yếu là thuốc ký ninh (Quining) 
dạng viên 0,25mmg và dạng ống 
0,40mmg, thuốc Quinacrine dạng viên 
0,10mmg và dạng ống 0,30mmg, cả 2 
loại thuốc này dùng để điều trị sốt rét, 
căn bệnh khá phổ biến ở nhà tù Côn 
Đảo, ngoài ra còn có một ít thuốc 
kháng sinh điều trị bệnh thương hàn, 
bệnh đậu mùa. Thiếu bác sĩ và thiết bị 
khám chữa bệnh buộc nhà tù phải 
chuyển bệnh nhân về Sài Gòn để điều 
trị. Tuy nhiên, việc chuyển về Sài Gòn 
HỒ VIẾT HÙNG – CÁC NGUYÊN NHÂN MẮC BỆNH CỦA 
51 
điều trị chủ yếu dành cho giám thị, gia 
đình giám thị và nhân viên nhà tù khi 
bệnh nặng, mặc dù khi bác sĩ 
Rozieres ra làm việc tại Côn Đảo, ông 
đã đấu tranh với Giám đốc nhà tù để 
đưa một số tù nhân bệnh nặng về Sài 
Gòn điều trị trong giai đoạn này. 
Lực lượng nhân viên y tế nhà tù nói 
riêng và nhân viên nhà tù nói chung 
phần nhiều chẳng thiết tha gì với công 
việc cai quản tù nhân ngoài Côn Đảo. 
Họ coi việc cai quản tù nhân là nguy 
hiểm, một phần vì nơi đây toàn những 
tù nhân án nặng, một phần vì bệnh tật 
luôn rình rập họ. Bộ phận nhân viên 
này tỏ rõ sự hời hợt với công việc, họ 
làm chủ yếu là vì đồng lương để nuôi 
sống bản thân và gia đình. Chính vì 
thế năm 1948 Giám đốc nhà tù Brulé 
trong bản báo cáo số 93C gửi giới 
hữu trách Chính phủ Nam phần khi 
phân tích thái độ làm việc của nhân 
viên phải cay đắng gọi đây là một 
cuộc khủng hoảng tinh thần (crise de 
moral du personnel) của viên chức 
nhà tù. 
4. KẾT LUẬN 
Tình trạng bệnh tật ở nhà tù Côn Đảo 
giai đoạn 1946 - 1954 rất trầm trọng, 
nhiều căn bệnh nguy hiểm đã cướp đi 
sinh mệnh hàng trăm tù nhân, hàng 
ngàn người sau khi ra tù vẫn tiếp tục 
chống chọi với di chứng từ bệnh tật ở 
Côn Đảo. Nguồn gốc các căn bệnh ở 
nhà tù Côn Đảo chủ yếu là do sự 
hành hạ dã man về thể ác và tinh 
thần tù nhân; điều kiện vệ sinh môi 
trường của nhà tù dơ bẩn, các khám 
giam ẩm mốc, chật hẹp, là điều kiện 
tốt của các loại vi khuẩn bệnh tật phát 
triển và lây lan. Bên cạnh đó, chế độ 
lao động khổ sai cực nhọc, chế độ ăn 
uống của tù nhân không được đảm 
bảo trong một thời gian dài làm suy 
kiệt sức lực tù nhân, cơ thể người tù 
thiếu khả năng đề kháng trước bệnh 
tật. Bệnh tật thực sự là nỗi lo sợ của 
tù nhân, là một khía cạnh phản ánh rõ 
ràng cho cái gọi là “Địa ngục trần gian 
Côn Đảo”.  
TÀI LIỆU TRÍCH DẪN 
1. Assitance Medicale de Poulo Condore. 1949. Rapport Medical Mensuel, mois de 
Juillet 1949, hồ sơ E03/272, Phông Tòa đại biểu Nam phần. Trung tâm Lưu trữ Quốc 
gia II. 
2. Assitance Medicale de Poulo Condore. 1949. Rapport Medical Mensuel, mois de 
October 1949, Hồ sơ E03/272, Phông Tòa đại biểu Nam phần, Trung tâm Lưu trữ Quốc 
gia II. 
3. Assitance Medicale de Poulo Condore. 1950. Rapport Medical Mensuel, mois de 
Janvier 1950, Hồ sơ E03/272, Phông Tòa đại biểu Nam phần. Trung tâm Lưu trữ Quốc 
gia II. 
4. Assitance Medicale de Poulo Condore. 1953. Rapport Medical Mensuel, mois de 
D’Avril 1953, Hồ sơ E03/272, Phông Tòa đại biểu Nam phần. Trung tâm Lưu trữ Quốc 
gia II. 
 TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI số 3 (259) 2020 
52 
5. Direction des Iles du Pénitencier de Poulo - Condore. 1952. Rapport sur l'année 
1952, hồ sơ số G80-113, Phông Phủ thủ hiến Nam Việt, Trung tâm Lưu trữ Quốc gia II. 
6. Giám đốc Tài chính. 1954. Giám đốc Tài chính gửi tỉnh trưởng Bạc Liêu về việc “Mua 
khô cho Côn Đảo”, hồ sơ số G84-114, Phông Phủ thủ hiến Nam Việt, Trung tâm Lưu trữ 
Quốc gia II. 
7. Hồ Viết Hùng. 2019. Tổng hợp báo cáo y tế nguyệt kỳ của nhà tù Côn Đảo, tư liệu 
cho đề tài nghiên cứu sinh. 
8. Minister de la Santé Publique. 1947. Direction de Cabinet, No971/MS-L, hồ sơ G80-
81, Phông Phủ thủ hiến Nam Việt. Trung tâm Lưu trữ Quốc gia II. 
9. Phòng Tuyên huấn Côn Đảo. 1954. Bản án xâm lược Pháp viết ngày 22/7/1954 tại 
Côn Đảo (bản viết tay). 
10. Assitance Medicale de Poulo Condore. 1951. Rapport d’assistance medicale et 
d’action sociale, hồ sơ d30-11, Phông Phủ thủ hiến Nam Việt, Trung tâm Lưu trữ Quốc 
gia II. 
11. Sud Vietnam, Direction des finaces. 1952. Order de Recette, hồ sơ 1582, Phông 
Thủ tướng Quốc gia Việt Nam, Trung tâm Lưu trữ Quốc gia II. 

File đính kèm:

  • pdfcac_nguyen_nhan_mac_benh_cua_tu_nhan_o_nha_tu_con_dao_giai_d.pdf