Các đặc điểm hoạt động kinh doanh dịch vụ viễn thông di động ảnh hưởng tới kế toán doanh thu
Trong công tác kế toán, bên cạnh việc tuân thủ đúng các nguyên t trong chuẩn mực kế toán, chế độ kế toán, người làm kế toán cần quan tâm tới đặc điểm kinh doanh của ngành nghề, l một ngành nghề phức tạp, đặc điểm hoạt động kinh doanh có nhiều n ĩnh vực mà doanh nghiệp mình tham gia. Viễn thông di động là ắc kế toán, các quy định ét khác biệt với ngành, nghề khác. Vì vậy, đặc điểm kinh doanh viễn thông di động cũng ảnh hưởng rất lớn tới công tác kế toán nói chung và kế toán doanh thu nói riêng. Bài viết đi sâu phân tích đặc điểm riêng biệt của lĩnh vực viễn thông di động, từ đó đánh giá sự ảnh hưởng của đặc điểm đó tới công tác kế toán doanh thu tại các doanh nghiệp viễn thông di động
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Bạn đang xem tài liệu "Các đặc điểm hoạt động kinh doanh dịch vụ viễn thông di động ảnh hưởng tới kế toán doanh thu", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
Tóm tắt nội dung tài liệu: Các đặc điểm hoạt động kinh doanh dịch vụ viễn thông di động ảnh hưởng tới kế toán doanh thu
chữ viết, dữ liệu) qua các phương tiện truyền thông (hữu tuyến như đường dây kim loại, cáp quang hoặc vô tuyến hoặc các hệ thống điện tử khác). Quá trình truyền thông gồm có truyền thông cơ học (bưu chính) và truyền thông điện (viễn thông) bởi nó phát triển từ dạng cơ học (máy móc) sang dạng điện/quang và ngày càng sử dụng những hệ thống điện/quang phức tạp hơn. Có thể thấy hoạt động sản xuất kinh doanh trong lĩnh viễn thông sẽ bao gồm nhiều hoạt động: Kinh doanh vật tư, thiết bị chuyên ngành tin học, NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN 37Số 142 - tháng 8/2019 công nghệ thông tin phục vụ cho việc truyền tin; kinh doanh khai thác mạng lưới và dịch vụ truyền số liệu, internet, truyền hình; tư vấn, thiết kế, xây dựng, bảo dưỡng các công trình viễn thông; tổ chức thiết lập cơ sở dữ liệu, kinh doanh các dịch vụ cung cấp tin tức trên mạng truyền số liệu và internet; dịch vụ nghiên cứu thị trường, tổ chức sự kiện, hoạt động quan hệ công chúng; cung cấp dịch vụ viễn thông; mua bán bản quyền, sản xuất phần mềm tin học... Theo Luật Viễn thông của Australia năm 1979 có sửa đổi năm 2017, dịch vụ viễn thông là dịch vụ truyền tải thông tin liên lạc bằng cách sử dụng công nghệ truyền tín hiệu điện tử có định tuyến, không định tuyến hoặc cả hai, là dịch vụ cho phép thực hiện liên lạc thông qua hạ tầng viễn thông được vận hành bởi một nhà cung cấp dịch vụ viễn thông, tuy nhiên cũng có trường hợp liên lạc được thực hiện đơn giản qua sóng radio. Tại Điều 4, Khoản 7 của Pháp lệnh Bưu chính - Viễn thông của Việt Nam số 43/2002/ PL-UBTVQH10 ban hành ngày 25/5/2002 đã quy định rằng “dịch vụ viễn thông là dịch vụ truyền ký hiệu, tín hiệu, số liệu, chữ viết, âm thanh, hình ảnh hoặc các dạng khác của thông tin giữa các điểm kết cuối của mạng viễn thông. Điểm kết cuối của mạng viễn thông là điểm đấu nối vật lý thuộc mạng viễn thông theo các tiêu chuẩn kỹ thuật để bảo đảm việc đấu nối thiết bị đầu cuối của người sử dụng dịch vụ vào mạng viễn thông”. Theo quy định tại Điều 3 - Luật Viễn thông số 41/2009/QH12, dịch vụ viễn thông được hiểu là dịch vụ gửi, truyền, nhận và xử lý thông tin giữa hai hoặc một nhóm người sử dụng dịch vụ viễn thông, bao gồm dịch vụ cơ bản và dịch vụ giá trị gia tăng. Nói một cách khác, đó chính là dịch vụ cung cấp cho khách hàng khả năng trao đổi thông tin với nhau hoặc thu nhận thông tin thông qua mạng viễn thông (thường là mạng công cộng như mạng điện thoại chuyển mạch công cộng, mạng điện thoại di động, mạng Internet, mạng truyền hình cáp...) của các nhà cung cấp dịch vụ và nhà cung cấp hạ tầng mạng. Dịch vụ viễn thông di động là một loại hình dịch vụ viễn thông - dịch vụ truyền ký hiệu, tín hiệu, số liệu, chữ viết, âm thanh, hình ảnh hoặc các dạng khác của thông tin giữa các điểm kết cuối thông qua mạng viễn thông di động- được cung TÖØ LYÙ LUAÄN ÑEÁN THÖÏC TIEÃN NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN38 Số 142 - tháng 8/2019 cấp bởi nhà cung cấp viễn thông cho khách hàng nhằm thoả mãn những nhu cầu sản xuất và sinh hoạt của con người. Đặc điểm của dịch vụ viễn thông có thể tổng hợp qua 06 đặc điểm quan trọng sau: Thứ nhất, để cung cấp dịch vụ viễn thông di động, doanh nghiệp viễn thông di động phải sử dụng con người và các phương tiện có ích khác nhưng có thể thấy sự tương tác của khách hàng khi sử dụng dịch vụ này chủ yếu với máy móc, thiết bị và những thiết bị điện tử, thay vì sự tương tác con người. Hiểu rõ được đặc điểm này, giúp kế toán tài chính, kế toán quản trị nắm được quy trình kinh doanh, mô tả chính xác kết quả của doanh nghiệp khi cung cấp dịch vụ viễn thông di động. Thứ hai, hệ thống cơ sở hạ tầng của dịch vụ được dùng chung và được thiết kế để có thể cung cấp một công suất nhất định tại bất cứ thời điểm nào. Điều này đặt ra một vấn đề với nhà sản xuất là làm thế nào để điều tiết nhu cầu sử dụng, tránh gây ra tình trạng quá tải hoặc thất thoát doanh thu. Nhu cầu truyền đưa tin tức sẽ cao vào ban ngày, trong giờ làm việc của các cơ quan và thấp vào ban đêm. Điều này khiến cho hệ thống dễ bị quá tải vào ban ngày trong khi ban đêm lại không được sử dụng. Các nhà cung cấp dịch vụ có thể khuyến khích việc sử dụng dịch vụ vào cuối tuần hay ban đêm bằng cách giảm giá cước vào cuối tuần hoặc ban đêm cho điện thoại di dộng hoặc đường dài. Hơn nữa, sản phẩm viễn thông di động mang những sắc thái riêng gắn với hoạt động của ngành viễn thông nên doanh thu của dịch vụ này cũng có những đặc điểm đặc thù khác với các ngành khác - sản phẩm viễn thông di động là sản phẩm vô hình, nó không mang hình thái vật chất cụ thể mà được thể hiện bằng lợi ích khách hàng thông qua việc thỏa mãn nhu cầu khách hàng nên việc đo lường doanh thu, xác định thời điểm ghi nhận doanh thu, xác định giá bán, sản lượng cho sản phẩm viễn thông di động gặp khó khăn hơn hàng hóa, quá trình xác định, ghi nhận thường phức tạp hơn nhiều. Bộ phận kế toán phải kết hợp rất chặt chẽ với các bộ phận khác như bộ phận kỹ thuật của doanh nghiệp viễn thông di động để xác định các yếu tố trên. Do đó, đòi hỏi kế toán phải xác định được thời điểm ghi nhận doanh thu, đo lường doanh thu hợp lý để ghi chép và công bố các thông tin về doanh thu dịch vụ viễn thông di động. Bên cạnh đó, đối tượng lao động của quá trình sản xuất, kinh doanh các sản phẩm viễn thông là tin tức, đối tượng lao động này không bị thay đổi hình dạng, tính chất, chất lượng như các hàng hóa thông thường mà chỉ thay đổi vị trí, không gian nên người tiêu dùng rất khó xác định giá trị và vì vậy khó chấp nhận một số khoản phải trả (doanh thu viễn thông) của một sản phẩm viễn thông di động. Thứ ba, viễn thông là một ngành năng động và đang thay đổi hàng ngày, bên cạnh việc cung cấp sản phẩm dịch vụ di động sẽ cung cấp các sản phẩm đi kèm là hàng hóa, các gói dịch vụ khác. Để bán được sản phẩm của mình, hoạt động cung cấp dịch vụ này thường có rất nhiều chương trình khuyến mại khác nhau cho từng đối tượng khách hàng, từng thời điểm cung cấp. Việc ký kết hợp đồng với khách hàng, trong đó có hợp đồng ngắn hạn, hợp đồng dài hạn sẽ tạo ra những thách thức cho việc xác định doanh thu viễn thông di động trong mỗi thời kỳ. Bản thân lưu lượng khách hàng sử dụng được theo dõi trên tài khoản chính (tiêu dùng gốc) và tài khoản khuyến mại. Vậy doanh thu căn cứ vào tài khoản nào để ghi nhận. Có cần theo dõi trên tài khoản doanh thu gốc, tài khoản doanh thu khuyến mại hay không? Đặc biệt là với sự phức tạp của các đề nghị phát sinh thêm từ phía khách hàng hay các ưu đãi mà doanh nghiệp viễn thông đưa ra. Và với kế toán doanh thu dịch vụ viễn thông di động thì cần phải quan tâm lớn đến vấn đề hợp đồng với khách hàng. Điều này ảnh hưởng rất lớn tới công việc kế toán để bắt kịp xu thế hội nhập quốc tế, phù hợp với sự thay đổi lớn trong kỹ thuật, trong sản phẩm, dịch vụ mà mình cung cấp. Sự thách thức với việc xác định doanh thu dịch vụ viễn thông di động thể NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN 39Số 142 - tháng 8/2019 hiện đầu tiên ở việc xác định có bao nhiêu nghĩa vụ phải thực hiện trong một hợp đồng viễn thông di động nói riêng là khá phức tạp, vì mỗi hợp đồng có thể bao gồm một gói nhiều loại hàng hóa và dịch vụ đi kèm. Ví dụ, một hợp đồng có thể bao gồm việc cung cấp một thiết bị di động kết hợp với gói thuê bao di động có kết nối Internet, phí mở mạng và khuyến mãi bằng tiền mặt kèm theo. Hơn nữa, xu hướng phát triển của khoa học kỹ thuật, khách hàng sử dụng dịch vụ data (thoại, tin nhắn) qua thiết bị viễn thông di động ngày càng tăng. Nghĩa là xu hướng thoại, tin nhắn qua mạng vô tuyến ngày càng giảm. Điều đó chỉ ra, trong công tác kế toán doanh thu phải quy đổi đơn vị tính về “Lưu Lượng” thay vì sử dụng giây, phút, số tin nhắn như trước. Để tạo ra doanh thu, các doanh nghiệp viễn thông phải sử dụng các trạm inbilling (BTS). Việc xác định doanh thu, lãi lỗ theo trạm BTS ngày càng được các doanh nghiệp quan tâm. Thứ tư, việc xác định giá trị hợp đồng viễn thông cũng không đơn giản, do hợp đồng có thể có các phần giá trị không cố định và sẽ biến đổi theo các điều kiện kèm theo (ví dụ: Thiết bị di động được bán với giá ưu đãi hơn giá thị trường với điều kiện thuê bao phải duy trì trong một thời gian nhất định), hay hợp đồng bao gồm các khoản mục phi tiền tệ (ví dụ: Được tặng quà kèm theo), hoặc hợp đồng có yếu tố hỗ trợ tài chính lớn (ví dụ: Doanh nghiệp viễn thông hỗ trợ tài chính cho khách hàng thông qua việc cho trả chậm hay trả dần), hay hợp đồng có thêm cả việc trả tiền lại cho khách hàng (ví dụ: Khách hàng được tặng tiền khi ký hợp đồng). Việc sử dụng thông tin di động không cố định và để đáp ứng nhu cầu ngày càng cao cả về số lượng và chất lượng của người tiêu dùng, việc định giá dịch vụ cung cấp trong doanh nghiệp viễn thông di động phụ thuộc nhiều vào khách hàng, vào từng hợp đồng ký kết với khách hàng. Đòi hỏi các doanh nghiệp viễn thông cần phải xác định giá bán độc lập, quan tâm tới khâu định giá bán sản phẩm dịch vụ cung cấp để vừa có thể có khả năng cạnh tranh, vừa có thể có lãi. Khi xác định giá bán độc lập, một thực thể được yêu cầu sử dụng thông tin quan sát, nếu nó có sẵn. Nếu giá bán độc lập không trực tiếp quan sát được, một thực thể sẽ cần phải sử dụng các ước tính dựa trên thông tin hợp lý có sẵn. Các phương pháp ước tính khả thi bao gồm điều chỉnh cách tiếp cận đánh giá thị trường và chi phí dự kiến. Trong khi nhiều hàng hóa và dịch vụ viễn thông được bán riêng, giá của các doanh nghiệp có thể khác nhau do cạnh tranh, quy định của Nhà nước hoặc loại khách hàng. Các doanh nghiệp viễn thông di động sẽ cần phải xem xét các yếu tố này khi họ xác định bán độc lập giá cả hàng hóa và dịch vụ của họ. Giá bán cũng thay đổi thường xuyên, không ổn định vì ảnh hưởng các công nghệ mới và các yếu tố trên thị trường. Các yêu cầu xác định giá bán độc lập một cách thường xuyên sẽ yêu cầu các doanh nghiệp viễn thông cập nhật các quy trình và hệ thống của chúng. Đây sẽ là một thách thức cho các doanh nghiệp viễn thông di động. Thứ năm, khách hàng là một bên ký kết hợp đồng với một doanh nghiệp viễn thông để có được hàng hóa hoặc dịch vụ viễn thông di động - sản phẩm của hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp viễn thông trên cơ sở trao đổi với khoản thanh toán nhận về. Vì vậy, khách hàng của doanh nghiệp viễn thông có thể là thể nhân hoặc pháp nhân trong nền kinh tế, có thể chính là một doanh nghiệp viễn thông khác. Trong hoạt động cung cấp dịch vụ di động, có phân chia hoạt động di động nội mạng, ngoại mạng. Điều này chỉ ra rằng, mối quan hệ của doanh nghiệp viễn thông với khách hàng có thể là khách hàng nội mạng, khách hàng ngoại mạng. Quá trình kiểm soát, đối soát cước di động với khách hàng ngoại mạng được thông qua công ty viễn thông mà khách hàng đó ký hợp đồng viễn thông di động. Do số lượng hợp đồng hàng năm của các doanh nghiệp viễn thông là rất lớn, mỗi hợp đồng có nghĩa vụ thực hiện việc cung cấp dịch vụ khác nhau. Nghĩa vụ thực hiện là nghĩa vụ pháp lý hay nghĩa vụ liên đới mà doanh nghiệp viễn thông cần TÖØ LYÙ LUAÄN ÑEÁN THÖÏC TIEÃN NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN40 Số 142 - tháng 8/2019 phải thực hiện do đã cam kết trong hợp đồng với khách hàng, liên quan tới việc chuyển giao hàng hóa, dịch vụ cho khách hàng. Vì vậy, tại thời điểm khởi đầu của hợp đồng, kế toán cần xác định hàng hóa, dịch vụ chuyển giao là: Một hàng hóa hoặc dịch vụ (hoặc một gói các hàng hóa hoặc dịch vụ) tách biệt; hoặc là một loạt các hàng hóa hoặc dịch vụ tách biệt về cơ bản có đặc điểm giống nhau và có cách thức chuyển giao giống nhau cho khách hàng. Đối với mỗi nghĩa vụ thực hiện được xác định, tại thời điểm bắt đầu của hợp đồng, doanh nghiệp phải xác định việc liệu doanh nghiệp thỏa mãn nghĩa vụ thực hiện theo một khoảng thời gian hay thỏa mãn nghĩa vụ thực hiện tại một thời điểm nhất định. Nếu doanh nghiệp không thỏa mãn nghĩa vụ thực hiện theo một khoảng thời gian, thì nghĩa vụ thực hiện được thỏa mãn tại một thời điểm nhất định. Do đó, để phân chia các phiếu mua hàng kèm theo thành các nghĩa vụ thực hiện riêng lẻ và phân bổ giá giao dịch, các nhà mạng viễn thông di động phải phân bổ tổng giá trị hợp đồng giữa doanh thu từ việc bán điện thoại và gói bán hàng tháng. Việc xác định không đúng giá trị và thời điểm ghi nhận doanh thu sẽ ảnh hưởng rất lớn tới thông tin doanh thu kế toán cung cấp. Điều này cũng thể hiện lượng chứng từ cho kế toán dịch vụ viễn thông di động sử dụng cho việc ghi nhận và lưu trữ là rất lớn. Đòi hỏi kế toán tại các doanh nghiệp viễn thông di động phải có kiến thức, kỹ năng về tin học, về công nghệ, để có thể sử dụng các phần mềm có liên quan tới công việc của mình. Thứ sáu, quá trình sản xuất và tiêu dùng dịch vụ viễn thông là song song, không thể chia tách. Khi khách hàng liên lạc với một người khác qua di động là dịch vụ bắt đầu được tính phí và người đó phải có nghĩa vụ chi trả tiền. Vì vậy, với hợp đồng ngắn hạn, thì doanh thu cần được xác định và ghi nhận tại thời điểm kết thúc quá trình cung cấp dịch vụ. Tuy nhiên, làm thế nào để xác định khối lượng dịch vụ viễn thông di động đã hoàn thành - khi mà hợp đồng dịch vụ ký kết với khách hàng là dài hạn và trải qua nhiều kỳ kế toán. Để ghi nhận doanh thu dịch vụ viễn thông di động, kế toán có thể phải sử dụng đến phương pháp ước tính để xác định doanh thu. Lựa chọn phương pháp nào cho phù hợp và đem lại thông tin hữu ích cũng là một yêu cầu của kế toán doanh thu. Cuối cùng, quá trình truyền thông tin luôn có sự tham gia của nhiều doanh nghiệp viễn thông, trong đó mỗi doanh nghiệp có thể chỉ là một mắt xích trong dây chuyền sản xuất. Các doanh nghiệp phục vụ bên gọi thường phải trả cho các doanh nghiệp cung cấp đường truyền và các doanh nghiệp phục vụ bên nhận một khoản chi phí gọi là “phí kết nối” được xác định theo tỷ lệ doanh thu hoặc theo thỏa thuận giữa các bên. Vậy doanh thu viễn thông di động bao gồm cái gì, được tính như thế nào là đặc trưng kế toán doanh thu dịch vụ viễn thông. Hiểu được các đặc điểm của ngành, lĩnh vực mà doanh nghiệp kinh doanh sẽ giúp kế toán tổ chức công tác kế toán doanh thu có hiệu quả. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Bộ Thông tin và Truyền thông (2012), Thông tư số 05/2012/TT-BTTTT, ngày 18/5/2012; 2. Đặng Thị Loan (2013), Kế toán tài chính trong các doanh nghiệp, Nxb Đại học Kinh tế Quốc dân; 3. Đoàn Vân Anh (2005), Luận án, Đại học Thương mại; 4. Luật Viễn thông của Australia, số 114.1979, sửa đổi và bổ sung ngày 3/7/2017; 5. Nguyễn Thị Xuyến, Luận án “Chi phí và giá thành dịch vụ viễn thông di động tại Việt Nam”; 6. Tài liệu giảng dạy của Học viện Bưu chính Viễn thông (2007), Tổng quan về viễn thông. Ngày nhận bài: 11/07/2019 Ngày duyệt đăng: 18/07/2019
File đính kèm:
- cac_dac_diem_hoat_dong_kinh_doanh_dich_vu_vien_thong_di_dong.pdf