Bảo hiểm thất nghiệp trong phát triển kinh tế ở Việt Nam
Bảo hiểm thất nghiệp là một trong những chính sách xã hội quan trọng ở nhiều quốc gia. Ở Việt Nam, bảo hiểm thất nghiệp là một bộ phận quan trọng của Luật Bảo hiểm xã hội. Để đánh giá vai trò của bảo hiểm thất nghiệp ở Việt Nam trong chính sách an sinh xã hội, bài báo sử dụng phương pháp hồi quy (bình phương nhỏ nhất thông thường OLS) và thống kê mô tả để phân Tch. Kết quả phân Tch cho thấy chính sách bảo hiểm thất nghiệp có tác động Tch cực đến việc giảm nhanh và ổn định tỷ lệ thất nghiệp trong nền kinh tế Việt Nam (chính sách này đã làm giảm tỷ lệ thất nghiệp bình quân 0,71% mỗi năm kể từ năm 2009). Ngoài ra, chính sách bảo hiểm thất nghiệp không chỉ giúp người thất nghiệp ổn định cuộc sống mà còn tạo thêm cơ hội để họ bếp tục tham gia thị trường lao động nhanh hơn với nhiều lợi ích như tư vấn miễn phí, giới thiệu việc làm miễn phí, đào tạo miễn phí cho người thất nghiệp. Thành công của chính sách bảo hiểm thất nghiệp đã được ghi nhận trong việc giảm số lượng các cuộc đình công bằng cách làm dịu mối quan hệ giữa người sử dụng lao động và người lao động. Bên cạnh đó, chính sách bảo hiểm thất nghiệp sẽ giúp giảm thiểu sự biến động của chu kỳ kinh tế một cách tự động thông qua việc tăng tổng cầu theo cơ chế số nhân và góp phần hỗ trợ tăng trưởng kinh tế theo hướng bền vững. Bài báo cũng gợi ý một số gợi ý chính sách để các nhà hoạch định chính sách có thể kiểm soát tốt hơn jnh hình thất nghiệp cũng như ổn định thị trường lao động Việt Nam trong tương lai

Trang 1

Trang 2

Trang 3

Trang 4

Trang 5

Trang 6

Trang 7

Trang 8

Trang 9

Trang 10
Tải về để xem bản đầy đủ
Tóm tắt nội dung tài liệu: Bảo hiểm thất nghiệp trong phát triển kinh tế ở Việt Nam
ghiệp phá sản. Các quy định về xử phạt
vi phạm BHTN chưa đủ mạnh và mang nh răn đe cần
thiết, mức phạt chậm đóng đối với đơn vị nợ ền BHTN
thấp hơn hoặc bằng mức lãi suất ngân hàng nên nhiều
doanh nghiệp tư nhân vẫn cố nh chậm nộp, nợ đóng
BHTN, chiếm dụng ền đóng đóng BHTN của người lao
động để đầu tư kinh doanh sinh lời, ảnh hưởng quyền
lợi của người lao động cũng như gây thiệt hại nặng nề và
rủi ro cho việc duy trì quỹ BHTN trong tương lai.
3.2. Số lao động được hưởng trợ cấp thất nghiệp
Kể từ khi có hiệu lực đến nay, chính sách BHTN có vai
trò quan trọng trong việc bảo đảm an sinh xã hội, luôn
được coi là nhiệm vụ thường xuyên của Chính phủ cũng
như toàn xã hội. Trong giai đoạn 2009-2013, BHTN
không chỉ là công cụ tốt để đảm bảo an toàn cho người
thất nghiệp mà còn là “cỗ máy” ổn định tự động của nền
kinh tế Việt Nam vượt qua giai đoạn khủng hoảng kinh
tế thế giới một cách thành công. Khi tốc độ tăng trưởng
kinh tế bị chậm lại từ 8,05%/năm trong giai đoạn 2003-
2007 xuống 5,9%/năm trong giai đoạn 2008-2012,
khiến tỷ lệ thất nghiệp tăng mạnh do nhiều công ty cắt
giảm lao động để chống lại rủi ro phá sản. Nhìn chung,
số đối tượng hưởng trợ cấp thất nghiệp trong những
năm đầu thực hiện chính sách còn tương đối thấp, thời
gian hưởng ngắn; số chi các chế độ BHTN so với số thu
BHTN những năm đầu chỉ dao động khoảng dưới 30%.
Tuy nhiên, trong những năm gần đây tỷ lệ này bắt đầu
gia tăng, năm 2015 là 52% trở lên thì đến năm 2019 tỷ
lệ này là 70%. Đặc biệt, năm 2020 do ảnh hưởng của
dịch bệnh Covid-19 đã và đang tác động lớn đến kinh
tế, xã hội của Việt Nam; nhiều doanh nghiệp, hợp tác
xã, hộ kinh doanh phải tạm dừng hoạt động, thu h p
quy mô sản xuất; nhiều người lao động mất việc thì quỹ
BHTN cũng thực hiện được vai trò “điểm tựa” giúp đảm
bảo nguồn thu nhập ổn định cho người lao động không
có việc làm và tỷ lệ hưởng lên 90% so với số thu. Năm
2020, BHTN đã chi 11.135 tỷ đồng cho 797.485 người
(tăng 145% so với năm 2019). Khi số trợ cấp thất nghiệp
được trả cũng tăng thì tổng cầu cũng tự động nâng theo
cơ chế số nhân và góp phần hỗ trợ các doanh nghiệp
cũng như tốc độ tăng trưởng [4].
Bảng 3. Số người được hưởng chế độ BHTN giai đoạn 2010-2019
Chỉ êu
Năm
Số lượt người được
tư vấn giới thiệu việc làm
Số lượt người được
giới thiệu việc làm
Số người được
hỗ trợ học nghề
Số người có quyết định
hưởng trợ cấp thất nghiệp
2010 125.562 270 156.765
2011 215.498 17.240 1.036 289.181
2012 342.145 70.656 4.763 521.048
2013 397.338 106.600 10.610 454.839
2014 457.273 125.736 19.796 514.853
2015 473.791 119.590 24.378 526.279
2016 910.448 147.278 28.537 585.669
2017 1.113.933 168.719 34.723 671.789
2018 1.390.429 179.092 37.977 763.345
2019 1.473.907 171.622 38.422 787.589
Nguồn: Bảo hiểm xã hội Việt Nam [2,3]
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Tạp chí Nghiên cứu khoa học, Trường Đại học Sao Đỏ, ISSN 1859-4190, Số 1 (72) 2021
Có thể khẳng định, chính sách BHTN đã đạt được thành
công lớn không chỉ giúp người lao động đảm bảo, duy trì
cuộc sống; giúp người sử dụng lao động không bị áp lực
về tài chính vì không phải chi trả trợ cấp thôi việc, mất
việc làm cho người lao động mà còn giảm gánh nặng
cho ngân sách nhà nước vì không phải cấp một khoản
kinh phí cũng như thời gian để xây dựng chính sách,
trình tự, thủ tục để tổ chức thực hiện hỗ trợ cho đối
tượng này. Các khoản chi trả và dịch vụ được cung cấp
trong phạm vi BHTN như trợ cấp thất nghiệp, bảo hiểm
ốm đau, m việc làm mới và học nghề đã đảm bảo được
mục êu an sinh xã hội của Chính phủ.
Bảng 4. Tình hình chi trả các chế độ bảo hiểm thất nghiệp
Đơn vị: Tỷ đồng
Năm
Chỉ êu
2018
Số ền trợ cấp
thất nghiệp
439,44 1.075,3 2.314,6 3361,62 4.177,3 4.539,67 4.766,65 5.481,5 6.084,6 7.301,8
Số ền trợ cấp
1 lần
0,07 0,54 216,96 390,09 431,9 103,07 108,22 124,46 138,15 165,78
Số ền hỗ trợ
học nghề
0,20 0,63 0,216 3,96 12,6 33,51 35,19 40,46 44,91 53,90
Nguồn: Bảo hiểm xã hội Việt Nam [2,3]
Trong những năm qua, chính sách BHTN đã thể hiện
vai trò đảm bảo an sinh xã hội trong bối cảnh nền kinh
tế Việt Nam đang gặp nhiều khó khăn. Tuy nhiên, nhiều
chuyên gia cho rằng, khó áp dụng chế độ BHTN ở phạm
vi rộng do nhiều lao động Việt Nam vẫn đang làm việc
ở khu vực phi chính thức (doanh nghiệp không có hợp
đồng chính thức với lao động để tránh các quy định về
bảo hiểm nói chung và BHTN nói riêng).
4. KẾT LUẬN VÀ HÀM Ý CHÍNH SÁCH
Bài viết đã phân ch vai trò của chính sách bảo hiểm thất
nghiệp ở Việt Nam trong giai đoạn 2009-2019. Kết quả
phân ch cho thấy, chính sách này đã có tác động ch
cực đến hoạt động của thị trường lao động. Đặc biệt,
chế độ BHTN đã góp phần giảm tỷ lệ thất nghiệp trong
thời gian qua. Kết quả định lượng bằng phương pháp
bình phương nhỏ nhất (OLS) ước nh rằng chính sách
BHTN có tác động ch cực đến việc giảm nhanh hơn
và ổn định tỷ lệ thất nghiệp của nền kinh tế Việt Nam.
Cụ thể, chính sách này đã làm giảm tỷ lệ thất nghiệp
bình quân tăng 0,716% mỗi năm kể từ năm 2009. Chính
sách cũng mang lại nhiều lợi ích cho người lao động thất
nghiệp thông qua trợ cấp thất nghiệp, học nghề cũng
như dịch vụ m kiếm việc làm. Bên cạnh đó, chính sách
BHTN đã đóng một vai trò ch cực trong việc giảm số
lượng các cuộc đình công ở Việt Nam bằng cách làm dịu
mối quan hệ giữa người sử dụng lao động và người lao
động [1]. Mặc dù BHTN là nhằm hỗ trợ người lao động
trong thời gian gặp khó khăn khi mất việc làm nhưng,
khi thực hiện, chính sách BHTN còn gặp khá nhiều vấn
đề bất cập cần phải giải quyết như:
Thứ nhất, đối tượng áp dụng BHTN ở Việt Nam còn
chồng chéo trong các quy định của pháp luật. Cụ thể,
theo quy định của pháp luật hiện hành thì BHTN áp
dụng bắt buộc đối với người lao động là công dân Việt
Nam làm việc theo hợp đồng lao động hoặc hợp đồng
làm việc (xác định thời hạn hoặc không xác định thời
hạn) đủ từ 12 tháng đến 36 tháng và người sử dụng
lao động tham gia BHTN có từ 10 lao động trở lên. Tuy
vậy, mặc dù đối tượng tham gia BHTN là công dân Việt
Nam, nhưng không phải công dân Việt Nam nào cũng
được tham gia mà chỉ công dân đạt điều kiện theo luật
định mới được tham gia BHTN. Việc quy định như trên
cho thấy đối tượng tham gia BHTN ở Việt Nam rất hạn
h p, như người nước ngoài sang Việt Nam làm việc và
lao động nông nghiệp Việt Nam không được tham gia
BHTN.
Thứ hai, theo quy định hiện hành, để hưởng BHTN,
người lao động đã phải đóng BHTN đủ 12 tháng trở
lên trong vòng 24 tháng trước khi bị mất việc. Thực tế
hiện nay nếu trong vòng 24 tháng trước ngày người lao
động bị mất việc, họ mới chỉ đóng được 11 tháng BHTN
thì luật lại chưa có quy định rõ về chế độ BHTN của họ.
Hơn nữa, Bộ luật Lao động hiện hành vẫn quy định về
chế độ trợ cấp thôi việc cũng như trợ cấp mất việc đối
với người lao động khi họ thôi việc hoặc mất việc làm,
nhưng sẽ không áp dụng các trợ cấp này với những đối
tượng được hưởng chế độ BHTN. Do vậy, về mối quan
hệ giữa hưởng BHTN và các chế độ trợ cấp trên cũng
cần được làm rõ.
Thứ ba, khi người lao động bị mất việc làm hoặc bị chấm
dứt hợp đồng lao động, trong thời hạn 03 tháng kể từ
ngày chấm dứt hợp đồng lao động hoặc hợp đồng làm
NGÀNH KINH TẾ
Tạp chí Nghiên cứu khoa học, Trường Đại học Sao Đỏ, ISSN 1859-4190, Số 1 (72) 2021
việc, người lao động chưa có việc làm và có nhu cầu
hưởng trợ cấp thất nghiệp phải trực ếp nộp hồ sơ đề
nghị hưởng trợ cấp thất nghiệp tại Trung tâm Dịch vụ
việc làm thuộc Sở Lao động - Thương binh và Xã hội
nơi đang làm việc. Người lao động chưa m được việc
làm trong thời hạn 15 ngày làm việc kể từ ngày nộp hồ
sơ đề nghị hưởng trợ cấp thất nghiệp được Giám đốc
Sở Lao động - Thương binh và Xã hội quyết định hưởng
trợ cấp thất nghiệp thì Trung tâm Dịch vụ việc làm xác
nhận về việc đã giải quyết hưởng trợ cấp thất nghiệp
của người lao động vào sổ bảo hiểm xã hội và gửi lại
người lao động cùng với quyết định hưởng trợ cấp thất
nghiệp sau khi chụp sổ bảo hiểm xã hội để lưu hồ sơ.
Thời điểm hưởng trợ cấp thất nghiệp của người lao
động được nh từ ngày thứ 16 theo ngày làm việc kể
từ ngày nộp hồ sơ đề nghị hưởng trợ cấp thất nghiệp.
Như vậy, thời gian giải quyết chế độ BHTN cho người
lao động là tương đối nhanh. Tuy nhiên, khi thực hiện
thì thủ tục giải quyết cho người lao động hưởng BHTN
gặp nhiều khó khăn từ chính các quy định của pháp luật
chưa được chặt chẽ, như: Pháp luật quy định khi đơn
phương chấm dứt hợp đồng lao động, để được hưởng
các chế độ của BHTN, người lao động phải có giấy xác
nhận của đơn vị cuối cùng trước khi thất nghiệp về việc
đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động là hợp pháp.
Vấn đề khó ở đây là một mặt pháp luật yêu cầu người
đơn phương chấm dứt hợp đồng có giấy xác nhận của
doanh nghiệp là đơn phương chấm dứt hợp đồng hợp
pháp là bắt buộc trong hồ sơ, nhưng luật lại không quy
định việc xác nhận cho những người này là nghĩa vụ bắt
buộc của doanh nghiệp. Hơn nữa, khi người lao động
đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động thì về tâm lý,
người sử dụng lao động cũng không dễ dàng chấp nhận
vì họ cho rằng người lao động đã vi phạm hợp đồng và
họ không có nghĩa vụ phải xác nhận, vì không có chế tài
nào áp dụng với họ, Vì thế, doanh nghiệp thường gây
khó dễ cho người lao động bằng cách kéo dài thời gian
không xác nhận cho người lao động. Không những thế,
người sử dụng lao động cũng chậm trả sổ bảo hiểm cho
người lao động. Do vậy, đã có nhiều trường hợp người
lao động không thể được nhận BHTN do hết thời gian
mà thiếu hồ sơ để làm thủ tục. Trong trường hợp khác,
người lao động và người sử dụng lao động thông đồng
để trục lợi BHTN, khi người sử dụng lao động ký xác
nhận chấm dứt hợp đồng giả tạo, để người lao động làm
hồ sơ hưởng BHTN rồi lại đi làm bình thường.
Thứ tư, về quy định hỗ trợ học nghề và hỗ trợ m việc
làm miễn phí: Theo quy định, người được hưởng trợ
cấp thất nghiệp được hỗ trợ học nghề với thời gian
không quá 6 tháng và hỗ trợ m việc làm miễn phí.
Tuy nhiên, trong thời gian thực hiện BHTN, phần lớn
người lao động chỉ quan tâm đến ền trợ cấp thất
nghiệp mà chưa thấy sự cần thiết và mức độ quan
trọng của chính sách hỗ trợ học nghề. Điều này cho
thấy, công tác tuyên truyền về chính sách BHTN chưa
được đúng mức, dẫn đến người lao động còn mơ hồ
về BHTN. Ngoài ra, thời hạn hỗ trợ là 6 tháng còn quá
ngắn khi áp dụng trên thực tế, không đảm bảo được
quyền lợi của người lao động.
Để chính sách BHTN phát huy hiệu quả hơn nữa trong
thời gian tới cần thực hiện một số giải pháp sau:
Một là, hệ thống các văn bản pháp luật liên quan đến
chính sách BHTN cần đơn giản hơn để tạo điều kiện
thuận lợi cho việc đăng ký trợ cấp thất nghiệp cũng như
tăng nh minh bạch của các thông n liên quan đến trợ
cấp cho người lao động thất nghiệp.
Hai là, ếp tục đẩy mạnh thực hiện chính sách BHTN
bao trùm rộng trong các doanh nghiệp và tăng cường
công tác kiểm tra, giám sát việc thực hiện chính sách
này tại các doanh nghiệp nhằm tăng đối tượng tham
gia BHTN.
Ba là, cơ quan quản lý cần ếp tục ứng dụng công nghệ
thông n trong công tác quản lý BHTN nhằm cắt giảm
chi phí cho hệ thống.
Bốn là, với sự phát triển thặng dư lũy kế của quỹ BHTN,
nên tăng trợ cấp thất nghiệp lên mức cao hơn và giảm
mức đóng vào quỹ BHTN của người sử dụng lao động,
bên cạnh đó cũng cần điều chỉnh mức đóng góp vào
quỹ BHTN của người lao động để đảm bảo sự bình đẳng
giữa hai bên trên thị trường lao động.
Năm là, hoàn thiện dữ liệu về số lượng lao động trong
khu vực phi chính thức của nền kinh tế cũng như giải
pháp mạnh mẽ đối với người sử dụng lao động trong
việc thực hiện chính sách BHTN.
Mặc dù chính sách BHTN ở Việt Nam còn nhiều hạn chế
cần phải sửa đổi, bổ sung khung pháp lý cho hoàn thiện,
nhưng không thể phủ nhận chính sách BHTN trong giai
đoạn vừa qua đã tạo được động lực thúc đẩy thị trường
lao động, đặc biệt là bảo đảm an sinh xã hội góp phần
giữ vững ổn định về kinh tế - chính trị - xã hội của đất
nước. Ngoài ra, chính sách BHTN đã góp phần thúc đẩy
tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững thông qua việc
điều hoà các mâu thuẫn xã hội, tạo nên sự đồng thuận
giữa các tầng lớp, các nhóm xã hội trong quá trình phát
triển. Chính sách BHTN được thiết kế hiệu quả có thể
tạo điều kiện cho người lao động đầu tư tốt hơn cho
tương lai. Xã hội càng phát triển, càng đạt tới nấc thang
cao hơn của ến bộ, văn minh và hiện đại thì càng phải
quan tâm giải quyết vấn cho người lao động. Ngược lại,
sự tăng trưởng kinh tế, sự phát triển bền vững sẽ cho
phép có thêm nguồn lực để chăm lo phát triển về xã hội
mà trọng tâm là các chính sách về an sinh xã hội như
BHTN, BHYT, trợ cấp xã hội,
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Tạp chí Nghiên cứu khoa học, Trường Đại học Sao Đỏ, ISSN 1859-4190, Số 1 (72) 2021
THÔNG TIN VỀ TÁC GIẢ
Nguyễn Minh Tuấn
- Tóm tắt quá trình đào tạo, nghiên cứu (thời điểm tốt nghiệp và chương trình đào tạo,
nghiên cứu):
+ Năm 1999: Tốt nghiệp Đại học chuyên ngành Quản lý kinh tế và xã hội, Tài chính -
Ngân hàng;
+ Năm 2005: Tốt nghiệp Thạc sĩ ngành Quản trị kinh doanh;
+ Năm 2015: Tốt nghiệp Tiến sĩ ngành Tài chính - Ngân hàng;
- Tóm tắt công việc hiện tại: Giảng viên, Trưởng phòng Tổ chức - Hành chính, Trưởng khoa
Kinh tế, Trường Đại học Sao Đỏ;
- Lĩnh vực quan tâm: Kinh tế, xã hội;
- Email: minhtuancnsd@yahoo.com;
- Điện thoại: 0912 795 162.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]. Ban chỉ đạo Trung ương thực hiện Nghị quyết số
70/NQ-CP (2017), Báo cáo sơ kết 5 năm thực hiện
Nghị quyết số 70/NQ-CP về chương trình hành động
của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 15-NQ/TW
ngày 01/6/2012 của BCH TW Đảng khóa XI một số
vấn đề về chính sách xã hội giai đoạn 2012-2020,
Hà Nội.
[2]. Bảo hiểm xã hội Việt Nam (2020), Tài liệu tham
khảo kinh nghiệm thực hiện bảo hiểm xã hội của các
nước trong khu vực và trên thế giới, Hà Nội.
[3]. Bảo hiểm xã hội Việt Nam (2020), Báo cáo số 2987/
BC-BHXH ngày 21/9/2020 về kết quả thực hiện
nhiệm vụ tháng 9 và nhiệm vụ tháng 10, Hà Nội.
[4]. Chính phủ (2020), Báo cáo nh hình quản lý và sử
dụng quỹ BHXH năm 2010-2020, Hà Nội.
[5]. Tổng cục Thống kê (2020), Báo cáo tác động của
dịch Covid-19 đến nh hình lao động, việc làm năm
2020, Hà Nội.
[6]. Vanham, P (2018), The story of Viet Nam’s economic
miracle - World Economic Forum, Retrieved from
https://www.weforum.org/agenda/2018/09/
how-vietnam-became-an-economic-miracle.
[7]. World Bank (2017), The World Bank in Vietnam -
Overview, Retrieved from h p://www.worldbank.
org/en/country/vietnam/overview.
File đính kèm:
bao_hiem_that_nghiep_trong_phat_trien_kinh_te_o_viet_nam.pdf

