Bài giảng Quản lý đất nông nghiệp bền vững - Lê Đình Huy

1.1. Phát triển bền vững

1.1.1. Khái niệm, nguồn gốc và ý nghĩa

Khái niệm phát triển bền vững lần đầu tiên xuất hiện vào những năm

1960 khi các nhà hoạt động môi trường bắt đầu tranh luận về tác động của tăng

trưởng kinh tế đối với môi trường. Kể từ đó, khái niệm này luôn được đề cập trên

các phương tiện truyền thông đại chúng và cả trong đời sống hàng ngày. Thế

nhưng, phát triển bền vững là gì?

“Phát triển bền vững là một sự phát triển về mọi mặt trong hiện tại mà vẫn

phải bảo đảm sự tiếp tục phát triển trong tương lai xa” .

Khái niệm này hiện đang là mục tiêu hướng tới nhiều quốc gia trên thế giới,

mỗi quốc gia sẽ dựa theo đặc thù kinh tế, xã hội, chính trị, địa lý, văn hóa riêng

để hoạch định chiến lược phù hợp nhất với quốc gia đó.

Hiện nay, vẫn còn nhiều tranh luận dưới những góc độ khác nhau về khái

niệm “Phát triển bền vững“. Theo quan điểm của Tổ chức Bảo tồn Thiên nhiên

Quốc tế (IUCN) đưa ra năm 1980 thì: “Phát triển bền vững phải cân nhắc đến

hiện trạng khai thác các nguồn tài nguyên tái tạo và không tái tạo, đến các điều

kiện thuận lợi cũng như khó khăn trong việc tổ chức các kế hoạch hành động

ngắn hạn và dài hạn đan xen nhau”. Định nghĩa này chú trọng đến việc sử dụng

các nguồn tài nguyên chứ chưa đưa ra một bức tranh toàn diện về phát triển bền

vững. Một định nghĩa khác được các nhà khoa học trên thế giới đề cập một cách

tổng quát hơn, trong đó chú trọng đến trách nhiệm của mỗi một cá nhân trong xã

hội: “Phát triển bền vững là các hoạt động phát triển của con người nhằm phát

triển và duy trì trách nhiệm của cộng đồng đối với lịch sử hình thành và hoàn

thiện các sự sống trên Trái đất”. Tuy nhiên, khái niệm do Uỷ ban Liên hợp quốc

về Môi trường và Phát triển (UNCED) đưa ra năm 1987 được sử dụng rộng rãi

hơn cả. Theo UNCED,

“Phát triển bền vững thoả mãn những nhu cầu của hiện tại nhưng

không làm giảm khả năng thoả mãn nhu cầu của các thế hệ tương lai”.

Như vậy, nếu một hoạt động có tính bền vững, xét về mặt lý thuyết nó có

thể được thực hiện mãi mãi.

Tại sao phải phát triển bền vững

Ngày nay, với sự phát triển của nền kinh tế Thế Giới, nhiều thách thức đặt

ra với loài người như: biến đổi khí hậu, khan hiếm nước, bất bình đẳng và đói

nghèo,. Tất cả chỉ có thể được giải quyết ở cấp độ toàn cầu và bằng cách thúc

đẩy phát triển bền vững về kinh tế, xã hội và môi trường. Cụ thể:

*) Phát triển bền vững đảm bảo tính bền vững về kinh tế

Sự phát triển bền vững giúp nền kinh tế tăng trưởng, phát triển nhanh

nhưng vẫn đảm bảo tính an toàn. Tức là sự tăng trưởng và phát triển nền kinh tế

lành mạnh, vẫn đáp ứng được những nhu cầu của cuộc sống, nâng cao đời sống

người dân nhưng lại tránh được sự suy thoái hoặc đình trệ kinh tế trong tương lai

đặc biệt là gánh nặng nợ nần để không biến nó thành di chứng cho các thế hệ mai

sau.

*) Phát triển bền vững đảm bảo tính bền vững về xã hội

Ngoài tính bền vững về kinh tế, phát triển bền vững còn đảm bảo tính bền

vững về xã hội thể hiện ở sự công bằng xã hội và phát triển con người thông qua

thước đo là chỉ số HDI. Theo đó, tính bền vững được thể hiện ở việc đảm bảo về

sức khỏe, dinh dưỡng, học vấn, xóa đói giảm nghèo, đảm bảo công bằng xã hội

và tạo cơ hội để mọi thành viên trong xã hội đều được bình đẳng ngang nhau. Từ

đó làm giảm nguy cơ xung đột xã hội hay chiến tranh

Bài giảng Quản lý đất nông nghiệp bền vững - Lê Đình Huy trang 1

Trang 1

Bài giảng Quản lý đất nông nghiệp bền vững - Lê Đình Huy trang 2

Trang 2

Bài giảng Quản lý đất nông nghiệp bền vững - Lê Đình Huy trang 3

Trang 3

Bài giảng Quản lý đất nông nghiệp bền vững - Lê Đình Huy trang 4

Trang 4

Bài giảng Quản lý đất nông nghiệp bền vững - Lê Đình Huy trang 5

Trang 5

Bài giảng Quản lý đất nông nghiệp bền vững - Lê Đình Huy trang 6

Trang 6

Bài giảng Quản lý đất nông nghiệp bền vững - Lê Đình Huy trang 7

Trang 7

Bài giảng Quản lý đất nông nghiệp bền vững - Lê Đình Huy trang 8

Trang 8

Bài giảng Quản lý đất nông nghiệp bền vững - Lê Đình Huy trang 9

Trang 9

Bài giảng Quản lý đất nông nghiệp bền vững - Lê Đình Huy trang 10

Trang 10

Tải về để xem bản đầy đủ

pdf 75 trang xuanhieu 8680
Bạn đang xem 10 trang mẫu của tài liệu "Bài giảng Quản lý đất nông nghiệp bền vững - Lê Đình Huy", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Bài giảng Quản lý đất nông nghiệp bền vững - Lê Đình Huy

Bài giảng Quản lý đất nông nghiệp bền vững - Lê Đình Huy
à hội nhập với thị trường thế giới. 
GAP (Good Agricultural Practices) có nghĩa là thực hành sản xuất nông 
nghiệp tốt. Tốt ở đây còn có nghĩa là an toàn, sạch và có chất lượng cao theo một 
tiêu chuẩn thống nhất chung trên toàn cầu mà lần đầu tiên vào năm 1997, một tổ 
chức bán lẻ ở Châu Âu có tên là Euro-Retailer Produce Working Group, đưa ra 
khái niệm sản xuất nông nghiệp tốt (Good Agricultural Practics, viết tắt là GAP) 
nên gọi là EurepGAP và sau đó trở thành GlobalGAP áp dụng chung cho toàn 
cầu. 
Căn cứ vào GlobalGap, nước ta đã có VietGAP trên cây ăn trái, lúa, cây 
công nghiệp, VietGAP trên rau, VietGap chăn nuôi và thuỷ sản. Những khái niệm 
tương tự như sản xuất lúa sạch, sản xuất lúa an toàn nếu chỉ áp dụng một số tiêu 
PDF Watermark Remover DEMO : Purchase from www.PDFWatermarkRemover.com to remove the watermark
 4 
chuẩn nhất định mà không hoàn toàn căn cứ vào GlobalGAP thì không được công 
nhận mà chỉ mang tính tương đối. 
GAP quy định những tiêu chuẩn và thủ tục nhằm phát triển nền sản xuất 
nông nghiệp an toàn, bền vững. Qua đó, bảo đảm an toàn cho người tiêu dùng, an 
toàn cho người lao động, an toàn cho môi trường và có những căn cứ có thể truy 
nguyên nguồn gốc của sản phẩm được sản xuất ra. 
Theo quy định trong việc công nhận sản phẩm GAP, mỗi năm một lần, 
những hộ dân đăng ký sản xuất sẽ được tổ chức chứng nhận GAP đến kiểm tra 
để cấp giấy chứng nhận sản phẩm đạt tiêu chuẩn GAP. Muốn có giấy chứng nhận 
là một quá trình khó khăn mà tất cả những người tham gia vào sản xuất từ người 
làm đất, người sản xuất bón phân, phun thuốc, chăm sóc, làm cỏ, cho đến thu 
hoạch lúa đều phải qua các lớp tập huấn và được lưu tên trong nhật ký sản xuất 
lúa để kiểm tra. Các loại bao phân, vỏ, chai thuốc đã sử dụng cũng phải được 
giữ lại để đối chiếu để truy nguyên nguồn gốc về sau. Tóm lại, để được cấp giấy 
chứng nhận đạt tiêu chuẩn GAP, người nông dân phải thực hiện đúng rất nhiều 
yếu tố và các loại quy định kỹ thuật. 
- Áp dụng tốt nông lâm kết hợp 
Việt Nam mô hình canh tác kết hợp cây gỗ với cây nông nghiệp đã có từ 
lâu đời, điển hình như canh tác nương rẫy truyền thống của đồng bào các dân tộc 
ít người, hệ sinh thái vườn nhà ở nhiều vùng địa lý sinh thái trên cả nước. Xét ở 
khía cạnh mô hình và kỹ thuật thì nông lâm kết hợp ở Việt Nam đã phát triển 
không ngừng. Từ những năm 1960, hệ sinh thái Vườn-Ao-Chuồng (VAC) được 
nông dân các tỉnh miền Bắc phát triển mạnh mẽ và lan rộng khắp cả nước với 
nhiều cải tiến khác nhau để thích hợp cho từng vùng sinh thái cụ thể. Sau đó là 
hệ thống Rừng-Vườn-Ao-Chuồng (RVAC) và vườn đồi được phát triển mạnh mẽ 
ở các khu vực dân cư miền núi. Các hệ thống rừng ngập mặn-nuôi trồng thuỷ sản 
cũng được phát triển mạnh mẽ ở vùng duyên hải các tỉnh miền Trung và miền 
Nam. Các dự án ODA cũng giới thiệu các mô hình canh tác trên đất dốc theo 
đường đồng mức (SALT) ở một số khu vực miền núi. 
Các hệ thống nông lâm kết hợp có thể thuận lợi hơn các phương pháp sản 
xuất truyền thống nông nghiệp và lâm nghiệp. Chúng có thể đem đến năng suất 
tăng cao và các lợi ích kinh tế, đa dạng hơn về hàng hóa nông sản cà cung cấp 
các mô hình sinh thái. Đa dạng sinh học trong các hệ thống nông lâm kết hợp 
PDF Watermark Remover DEMO : Purchase from www.PDFWatermarkRemover.com to remove the watermark
 5 
thường cao hơn trong hệ thống nông nghiệp thông thường. Với hai hay nhiều loài 
thực vật tương tác trên một diện tích đất nhất định, nó tạo ra một môi trường sống 
phức tạp hơn có thể hỗ trợ đa dạng hơn cho các loài côn trùng, chim chóc và các 
loài động vật khác. 
Nông lâm kết hợp có liên quan đến gần như tất cả các môi trường và là giải 
pháp tiềm năng cho những vấn đề phổ biến trên toàn cầu, các hệ thống nông lâm 
kết hợp có thể có lợi thế hơn so với nông nghiệp truyền thống hoặc lâm nghiệp 
truyền thống. Tuy nhiên, nông lâm kết hợp không phải là hệ thống phổ biến ở 
Việt Nam và cả trên toàn thế giới. 
Theo kiến nghị từ một cuộc khảo sát của chương trình khuyến nông tại Hoa 
Kỳ một số trở ngại (sắp xếp từ quan trọng nhất đến ít quan trọng) đối với nông 
lâm kết hợp bao gồm: thiếu các thị trường phát triển cho sản phẩm; không thật sự 
phù hợp áp dụng công nghệ hiện đại; thiếu thông tin về các ví dụ nông lâm kết 
hợp thành công; sự cạnh tranh giữa các cây, cây trồng và động vật; thiếu sự hỗ 
trợ tài chính; thiếu tiềm năng lợi nhuận rõ ràng; thiếu các chương trình đào tạo 
chuyên môn; thiếu kiến thức về nơi để tiếp thị sản phẩm; thiếu sự hỗ trợ kỹ thuật; 
người sử dụng đất không có nhu cầu tiếp nhận hoặc chỉ mới bắt đầu từ dự trù chi 
phí, kế hoạch thực hiện; thiếu cơ sở hạ tầng (ví dụ như các nhà xưởng, thiết bị); 
thiếu diện tích đất canh tác; thiếu nguồn con giống, cây giống; thiếu các nghiên 
cứu khoa học. 
- Quản lý tốt việc làm đất và phế, phụ phẩm nông nghiệp 
Sau hơn 30 năm đổi mới, nông nghiệp nước ta đã có bước tiến đáng kể, 
đưa Việt Nam trở thành một trong những nước xuất khẩu gạo hàng đầu thế giới 
cùng với nhiều mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu hàng tỷ USD. Tuy vậy, quá 
trình đưa cơ giới hóa vào sản xuất nông nghiệp diễn ra còn khá chậm, lực lượng 
lao động trong nông nghiệp còn nhiều, năng suất lao động thấp và gây lãng phí, 
thất thoát trong các khâu chế biến, thu hoạch, bảo quản. 
Tại Hội nghị trực tuyến “Thúc đẩy phát triển công nghiệp chế biến nông 
sản và cơ giới hóa nông nghiệp trong bối cảnh cuộc cách mạng công nghiệp lần 
thứ 4” được tổ chức vào tháng 2/2020, Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn 
cho biết, mức độ cơ giới hóa trong nông nghiệp ngày càng cao ở các khâu trước 
và sau thu hoạch. Cụ thể, tỷ lệ cơ giới hóa khâu làm đất cây nông nghiệp đạt 94%; 
PDF Watermark Remover DEMO : Purchase from www.PDFWatermarkRemover.com to remove the watermark
 6 
khâu gieo, trồng đạt 42%; khâu chăm sóc đạt 77%; khâu thu hoạch lúa đạt 65%... 
Nhờ đó, đã giúp nâng cao năng suất và giá trị gia tăng của sản phẩm nông nghiệp, 
tạo tiền đề quan trọng để xây dựng nền nông nghiệp hiện đại, ứng dụng công nghệ 
cao. Hệ thống trang bị động lực, số lượng, chủng loại máy, thiết bị nông nghiệp 
tăng nhanh, nhiều loại máy, thiết bị được áp dụng trong sản xuất nông nghiệp. So 
với năm 2011, năm 2019 có số lượng máy kéo cả nước tăng khoảng 48%, máy 
gặt đập liên hợp tăng 79%, máy sấy nông sản tăng 29%. Đối với công nghiệp chế 
tạo máy, thiết bị nông nghiệp, đến nay, ngành cơ khí trong nước đã sản xuất được 
động cơ, máy kéo công suất đến 30 mã lực (HP), chiếm trên 30% thị phần trong 
nước; máy liên hợp gặt lúa chiếm 15%. Trang bị động lực bình quân trong sản 
xuất nông nghiệp cả nước đạt khoảng 2,4 HP/ha canh tác. Ngành cơ khí trong 
nước cũng phát triển nhanh với trên 7.800 doanh nghiệp cơ khí (trong có 95 doanh 
nghiệp có quy mô vốn lớn, trên 500 tỷ đồng) và gần 100 cơ sở chế tạo máy, thiết 
bị nông nghiệp. Tại các địa phương, các loại máy móc phục vụ sản xuất (máy 
cày, bừa, gặt, tuốt lúa) được nông dân đầu tư mua sắm ngày càng nhiều, đáp 
ứng nhu cầu ngày càng cao trong sản xuất nông nghiệp. 
Tuy nhiên, Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn cũng chỉ rõ những 
khó khăn và tồn tại của vấn đề cơ giới hóa sản xuất nông nghiệp hiện nay. Cụ thể, 
mức độ cơ giới hoá trong sản xuất nông nghiệp một số khâu còn thấp, chưa toàn 
diện; trình độ trang bị máy động lực còn lạc hậu, hầu hết các máy làm đất công 
suất nhỏ, chỉ thích hợp với quy mô hộ và đất manh mún. Cơ chế chính sách chưa 
đủ hấp dẫn đầu tư vào chế biến nông sản. Một số chính sách về đất đai, tài chính, 
tín dụng, khoa học công nghệ chưa theo kịp yêu cầu thực tiễn sản xuất kinh 
doanh. Nguồn lực để triển khai các chính sách đã ban hành còn hạn chế nên hiệu 
quả chính sách không cao. 
Đánh giá thực tế cho thấy, cơ khí dành cho nông nghiệp ở Việt Nam đang 
ở trong tình trạng èo uột, khi một loạt nhà máy chuyên về cơ khí nông nghiệp 
trước đây sau khi chuyển đổi cơ chế thì gần như không còn đầu tư vào mảng này 
nữa. Hiện trong nước có khá ít doanh nghiệp đầu tư, đẩy mạnh công nghệ ứng 
dụng vào sản xuất máy nông nghiệp (máy kéo, máy cày), chỉ còn lại vài cái tên 
đáng kể như Tổng công ty Máy Động lực và Máy Nông nghiệp Việt Nam 
(VEAM), THACO, VINFAST 
PDF Watermark Remover DEMO : Purchase from www.PDFWatermarkRemover.com to remove the watermark
 7 
Mức độ cơ giới hóa của Việt Nam so với các nước trên thế giới cũng có 
khoảng cách khá xa. Bộ Công thương đánh giá mức độ trang bị động lực cho 
nông nghiệp Việt Nam chỉ đạt 1,4 mã lực (HP) canh tác, thấp hơn nhiều so với 
các nước như Thái Lan là 4 HP/ha; Trung Quốc 8 HP/ha; Hàn Quốc 10 HP/ha. 
Bên cạnh đó, hiện phần lớn “sân chơi” thị phần thuộc về khối ngoại, khi Việt 
Nam đang phải nhập khẩu 70% máy móc, thiết bị phục vụ nông nghiệp, chủ yếu 
từ Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, chỉ có 30% thị phần còn lại dành cho sản 
phẩm sản xuất trong nước. Sức cạnh tranh máy nông nghiệp Việt Nam cũng còn 
khá thấp vì có giá thành cao hơn sản phẩm nhập khẩu, đặc biệt là sản phẩm của 
Trung Quốc. Hơn nữa, các doanh nghiệp sản xuất máy nông nghiệp trong nước 
còn gặp khó khăn khi cạnh tranh với hàng trốn thuế, hàng lậu, hàng giả, hàng 
nhái 
Việc quản lý không tốt nguồn phế phụ phẩm của sản xuất nông nghiệp hiện 
là một vấn đề đã và đang tồn tại trong việc quản lý sử dụng đất nông nghiệp, để 
lại những hậu quả nghiêm trọng cho sức khoẻ của con người, vật nuôi, sức sản 
xuất của đất, suy giảm đa dạng sinh học và gây ô nhiễm môi trường. Thay vì tận 
dụng nguồn phế phụ phẩm làm vật liệu che phủ, bảo vệ đất, làm phân bón cho 
cây trồng, hay thức ăn cho vật nuôi, hiện các nguồn phế, phụ phẩm nông nghiệp 
đang bị đốt bỏ, hoặc xã thải không hợp lý. 
- Phục hồi và cải tạo đất 
Là một quốc gia có truyền thống sản xuất nông nghiệp, cùng với tiến trình 
mở mang bờ cõi, các thế hệ cha ông người Việt đã thực hiện nhiều kỳ công biến 
vùng đất phèn, mặn chiêm trũng ở Đồng Bằng Sông Cửu Long và hạ lưu Sông 
Hồng trở thành vùng đất nông nghiệp trù phú, biến vùng đất trơ cằn sỏi đá ở cao 
nguyên Tây Bắc trở thành vùng đất có thể sản xuất nông nghiệp. Tuy nhiên, với 
ảnh hưởng của biến đổi khí hậu và tác động tiêu cực của các hoạt động sản xuất 
công nghiệp, khai thác khoáng sản, hành vi khai thác tài nguyên đất không quan 
tâm đến sự bảo tồn đã biến nhiều diện tích đất sản xuất nông nghiệp bị thoái hoá. 
Theo báo cáo của nhiều nhà khoa học trong nước và quốc tế, hiện Việt Nam có 
1,3 triệu ha đất bị thoái hoá trung bình và nghiêm trọng. Đảng và nhà nước đã để 
ra nhiều chính sách nhằm bảo vệ, phục hồi tài nguyên đất; Bộ Tài nguyên và MT 
đã đầu tư rất rất nhiều ngân sách phục vụ việc đánh giá thực trạng suy thoái tài 
PDF Watermark Remover DEMO : Purchase from www.PDFWatermarkRemover.com to remove the watermark
 8 
nguyên đất đai trên cả nước và đã thí điểm phục hồi đất suy thoái thành công tại 
một số địa phương nhưng với những bất cập trong cơ chế vận hành, chính sách 
đầu tư và sự thiếu hụt kết quả nghiên cứu đáng tin cậy đã khiến công cuộc phục 
hồi và cải tạo đất đang tiến rất chậm, không theo kịp tốc độ suy thoái tài nguyên. 
- Quản lý vật nuôi tổng hợp 
Ngành chăn nuôi, nuôi trồng thuỷ sản Việt Nam chủ yếu phát triển theo 
đơn vị hộ gia đình và doanh nghiệp nhỏ, chính vì vậy rất dễ bị tổn thương dưới 
ảnh hưởng của thiên tai, dịch bệnh. Vấn đề sử dụng thuốc kháng sinh và thức ăn 
tăng trọng không kiểm soát cũng để lại hệ luỵ rất lớn cho sức khoẻ vật nuôi, môi 
trường và con người. 
- Năng lượng được quản lý bền vững 
Chiến lược quốc gia của Chính phủ về Cung cấp nước sạch và vệ sinh môi 
trường đặt mục tiêu là đến năm 2020 sẽ có khoảng 45% trang trại sử dụng hệ 
thống quản lý chất thải, đặc biệt là bể biogas để xử lý và quản lý chất thải. Chính 
phủ Việt Nam đang khuyến khích các công ty tư nhân Việt Nam và các công ty 
nước ngoài đầu tư vào năng lượng tái tạo, bao gồm: khí sinh học và năng lượng 
sinh khối. Chính phủ có tham vọng để gia tăng sự đóng góp từ năng lượng tái tạo 
cho phát điện (từ 3,5% năm 2010 tới 4,5% vào năm 2020 và tới 6% vào năm 
2030) cũng như gia tăng tái chế chất thải. Trong năm 2011 Chính phủ thiết lập 
các mục tiêu 85% rác thải sinh hoạt đô thị phải được thu gom, trong đó 60% sẽ 
được tái chế; 40% rác thải sinh hoạt nông thôn phải được thu gom với 50% được 
tái chế trong giai đoạn 2011-2015 và 95% rác thải đô thị được thu gom, trong đó 
85% sẽ được tái chế và 70% rác thải sinh hoạt nông thôn cũng được thu gom. 
Trong giai đoạn 2016-2020 sẽ có cơ bản được chế biến. 
Tuy vậy, hiện nay trên địa bàn cả nước có khoảng 500.000 hầm phân hủy 
biogas, có quy mô dưới 10m3 của các hộ gia đình nông dân. Riêng chương trình 
Khí sinh học cho ngành chăn nuôi Việt Nam, do Chính phủ Hà Lan tài trợ, tính 
đến năm 2011 đã xây được 15.678 hầm biogas. Ước tính chỉ có chưa đến 100 
hầm biogas thương mại, với dung tích khoàng 100-200m3 tại các trang trại nuôi 
lợn. Tuy nhiên toàn quốc có tới 17.000 trang trại lợn, nghĩa là mới đạt 0,3% trang 
trại có hầm biogas. Về công nghệ, hầu hết các hầm ủ nhỏ là loại hầm vòm cố 
định xây băng gạch hoặc đúc sẵn bằng composite tại các cơ sở chuyên nghiệp 
PDF Watermark Remover DEMO : Purchase from www.PDFWatermarkRemover.com to remove the watermark
 9 
, đến nay vẫn chưa có nhà máy sản xuất điện biogas nào được hòa lưới điện quốc 
gia. 
- Quản lý dịch hại tổng hợp (IPM) 
Chương trình IPM quốc gia của Việt Nam được triển khai từ năm 1992, 
với sự hỗ trợ của FAO (Chương trình IPM liên quốc gia) để đối phó với tình hình 
bộc phát của sâu hại (rầy nâu và sâu cuốn lá nhỏ) trên cây lúa do lạm dụng thuốc 
bảo vệ thực vật. Sau đó, một số chương trình được triển khai tiếp theo như: 
Chương trình IPM cộng đồng, IPM trên cây rau, bông; chương trình bảo tồn và 
ứng dụng đa dạng sinh học trong cộng đồng Châu Á cũng như hợp phần IPM 
trong khuôn khổ hỗ trợ ngành nông nghiệp từ năm 2000. Ở cấp trung ương, Cục 
Bảo vệ thực vật là cơ quan chịu trách nhiệm điều phối và quản lý Chương trình 
IPM quốc gia. Ở cấp tỉnh chương trình được thực hiện thông qua các Chi cục bảo 
vệ thực vật. Hiệu quả của Chương trình IPM quốc gia đã được cộng đồng công 
nhận trong suốt thời gian nói trên. Mục tiêu của Chương trình IPM là áp dụng 
biện pháp quản lý dịch hại tổng hợp (IPM) dựa trên phương pháp tiếp cận sinh 
thái, giúp người nông dân hiểu rõ hệ sinh thái đồng ruộng, sử dụng các phương 
thức canh tác hợp lý, đưa ra các quyết định hiệu quả trong quảnlý hệ thống sản 
xuất, hướng tới mục tiêu trồng cây khỏe và giảm thiểu mức độ sử dụng thuốc bảo 
vệ thực vật trên đồng ruộng. Từ đó, xây dựng một nền sản xuất bền vững. 
Mặc dù, nhận được sự quan tâm sâu sắc của Đảng và nhà nước, tuy nhiên 
việc áp dụng IPM ở Việt Nam hiện nay đang còn gặp nhiều khó khăn, chủ yếu là 
quá thiếu nguồn lực giảng viên (người hướng dẫn kỹ thuật) để truyền đạt kinh 
nghiệm, kiến thức, kỹ thuật thực hành IPM đến người sử dụng đất. 
PDF Watermark Remover DEMO : Purchase from www.PDFWatermarkRemover.com to remove the watermark

File đính kèm:

  • pdfbai_giang_quan_ly_dat_nong_nghiep_ben_vung_le_dinh_huy.pdf