Bài giảng Khuyến nông - Phạm Thạch
1.1. KHÁI NIỆM VỀ KHUYẾN NÔNG
1.1.1. Định nghĩa khuyến nông
Khuyến nông là một từ khó định nghĩa nhưng đã có rất nhiều cách định
nghĩa khác nhau tùy thuộc từng mục đích khác nhau. Sau đây là một số quan
điểm và định nghĩa về khuyến nông.
Trước hết, theo nghĩa Hán - Văn, “khuyến” có nghĩa là khuyên người ta
có gắng sức trong công việc, còn “khuyến nông” có nghĩa là khuyến mở mang
phát triển trong nông nghiệp.
Theo ngôn ngữ phương Tây, thuật ngữ “extension” có nguồn gốc từ Anh
từ những năm 1866 với một hệ thống trường Đại học. “Extension” - Khuyến
nông được tiếp nhận trước tiên ở các trường Đại học như Cambridge và
Oxford, sau đó được mở rộng tới các hội giáo dục khác ở Anh và các nước
khác. “Extension” với nghĩa ban đầu là “triển khai” hay “mở rộng” nếu khi
ghép với từ “Agriculture” thành “Agriculture Extension” thì được dịch là
“khuyến nông” và hiện nay đôi khi chỉ nói “Extension” người ta cũng hiểu đó
là khuyến nông.
“Khuyến nông là phương pháp động, nhận thông tin có lợi tới người dân
và giúp họ thu đươc những kiến thức, kỹ năng và những quan điểm cần thiết
nhằm sử dụng một cách có hiệu quả thông tin hoặc kỹ thuật này” (theo B.E.
Swanson và J.B. Claar).
3“Khuyến nông khuyến lâm là một sự giao tiếp thông tin tỉnh táo nhằm
giúp nông dân hình thành những ý kiến hợp lý và tạo ra các quyết định đúng
đắn” (theo A.W. Van den Ban và H.S. Hawkins).
“Khuyến nông khuyến lâm được xem như một tiến trình của việc hòa
nhập các kiến thức khoa học kỹ thuật hiện đại. Các quan điểm, kỹ năng để
quyết định cái gì cần làm, cách thức làm trên cơ sở cộng đồng địa phương sử
dụng các nguồn tài nguyên tại chỗ với sự trợ giúp từ bên ngoài để có khả năng
vượt qua các trở ngại gặp phải” (D.Sim và H.A. Hilmi).
“Khuyến nông khuyến lâm là làm việc với nông dân, lắng nghe những
khó khăn, các nhu cầu và giúp họ tự quyết định giải quyết vấn đề của chính
họ” (Malla, A Manual for training Field Workers).
“Khuyến nông khuyến lâm là một quá trình giáo dục. Các hệ thống
khuyến lâm thông báo, thuyết phục và kết nối con người, thúc đẩy các dòng
thông tin giữa nông dân và các đối tượng sử dụng tài nguyên khác, các nhà
nghiên cứu, các nhà quản lý và các nhà lãnh đạo” (Falconer, J.)
“Khuyến nông là một từ tổng quát dùng để chỉ tất cả các công việc có liên
quan đến sự nghiệp phát triển nông thôn, đó là một hệ thống giáo dục ngoài nhà
trường, trong đó có người già và người trẻ học bằng cách thực hành” (Thomas. G.
Floes).
Qua rất nhiều định nghĩa trên, chúng ta có thể định nghĩa khuyến nông
như sau:
“Khuyến nông là một quá trình trao đổi, học hỏi kinh nghiệm, truyền bá
kiến thức, đào tạo kỹ năng và trợ giúp những điều kiện cần thiết trong sản
xuất nông lâm nghiệp cho nông dân để họ có đủ khả năng tự giải quyết được
những công việc của chính mình nhằm nâng cao đời sống vật chất và tinh
thần cho gia đình và cộng đồng”.
Nghị định 56CP/2005/NĐ-CP ngày 26 tháng 4 năm 2005 của Chính phủ
về khuyến nông khuyến ngư có quy định: các tổ chức, cá nhân Việt Nam; tổ
chức cá nhân nước ngoài có hoạt động khuyến nông trong lĩnh vực: trồng trọt,
chăn nuôi, lâm nghiệp, thủy nông, nghề muối, chế biến, bảo quản nông lâm
sản, ngành nghề nông thôn và khuyến ngư trong lĩnh vực: nuôi trồng, khai
thác, bảo quản, chế biến thủy sản (gọi chung là khuyến nôn, khuyến ngư trong
lĩnh vực nông nghiệp, thủy sản).
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Tải về để xem bản đầy đủ
Tóm tắt nội dung tài liệu: Bài giảng Khuyến nông - Phạm Thạch
ng hỗ trợ, những kiến thức và những kỹ năng cần thiết nhằm phát triển các hoạt động cải thiện đời sống gia đình. Có một thực tế là phần lớn cán bộ khuyến nông là nam giới cho nên có thể họ chưa hiểu được một cách cặn kẽ vai trò của phụ nữ trong xã hội nông thôn. Có thể hiểu được vị trí của chị em phụ nữ khi đánh giá vai trò của họ trong ba lĩnh vực dưới đây: a. Kinh tế: Họ là người sản xuất ra lương thực và những sản phẩm tiêu dùng khác cho toàn thể gia đình. Họ cũng là lực lượng lao động chính trong mọi hoạt động kinh tế. b. Nội trợ: Với thiên chức của mình, họ vừa là mẹ, vừa là người nội trợ và chịu trách nhiệm trông nom, quản lý tất cả các hoạt động kinh tế trong gia đình. c. Làm mẹ: Họ sinh con đẻ cái, nuôi dưỡng và dạy dỗ chúng nên người. Người cán bộ khuyến nông phải hiểu được ba vai trò cơ bản đó của phụ nữ để tạo những điều kiện cần thiết giúp họ tham gia các hoạt động khuyến nông. Những vai trò đó cũng chỉ ra cho chúng ta thấy những nhu cầu hỗ trợ cần thiết phải có cho phụ nữ nông thôn. Tiếc rằng xưa nay, phụ nữ mới được tạo quá ít điều kiện để tham gia các chương trình khuyến nông vì sao như vậy? Ngoài những lý do chủ quan còn có những lý do khách quan như sau: - Văn hoá: ở nông thôn, phụ nữ thường bị ràng buộc bởi những tập tục văn hoá phong kiến cho nên ít được tiếp xúc với bên ngoài. Tuy rằng ở nước ta. phụ nữ đã được thực sự giải phóng nhưng thói quen từ ngàn xưa vẫn làm cho phụ nữ e dè, ngại tiếp xúc với người lạ. - Gánh nặng gia đình: Đi làm đã vậy, về nhà phụ nữ lại bị hàng núi công việc vặt không tên đè nặng lên đôi vai. Điều đó cũng làm cho họ dù có muốn, nhưng cũng ít thời gian tham gia các hoạt động khuyến nông. Chỉ riềng công việc đồng áng và việc nhà cũng đã làm cho nhiều chị em không lúc nào ngước mắt lên được. - Vị trí: Nhìn chung ở nông thôn, phụ nữ chưa thật sự bình đẳng như nam giới, nhất là trong công việc xã hội. Vì vậy mà người ta cũng ít mong đợi và khuyến khích chị em đóng những vai trò tích cực hơn trong những vai trò khuyến nông. Đối với những phụ nữ nghèo thì điều đó lại càng vô cùng khó khăn. Vai trò của giới là những công việc và những hoạt động cụ thể mà phụ nữ và nam giới thực tế đang làm. 155 Bảng 18: Vai trò khác nhau ở nam và nữ trong một số công việc Giới Vai trò Nữ giới Nam giới Nhận xét 1. Vai trò sản xuất Là các hoạt động tạo ra sản phẩm để đem lại thu nhập hay tự nuôi sống: lao động trên đồng ruộng ruộng, lao động ở nhà.. - Cấy lúa, gặt hái - Kiếm củi - Dệt vải - Chăm sóc ruộng vườn - Chăn nuôi lợn, gà - Cày bừa đất - Phun thuốc trừ sâu - Trồng cây ăn quả, trồng rừng - Làm thợ xây, thợ mộc - Nữ giới thường làm nhiều việc hơn nam giới - Nam giới thường tập trung vào các công việc nặng nhọc hơn 2. Vai trò nuôi dưỡng và tái sản xuất sức lao động - Chăm sóc con - Nấu ăn, giặt giũ - Chăm sóc người ốm, người già, trẻ em - Vệ sinh nhà cửa - Giúp vợ chăm sóc con cái - Dạy con học - Đọc báo nghe đài - Nam giới thường ít làm công việc nuôi dưỡng, vì có quan niệm cho rằng đó là công việc của phụ nữ 3. Vai trò cộng đồng: Họp tổ dân phố, đi dự các đám hiếu hỷ, các lễ hội - Vệ sinh xóm ngõ - Giúp công việc khi có đám hiếu hỷ - Thăm hỏi những người ốm đau - Đi hội họp - Dự các đám hiếu, hỷ - Đi tập huấn, tham quan - Nam giới thườnng là người chỉ đạo, còn nữ là người thừa hành 6.2.2. Sự phân công lao động giữa nam và nữ Trong hộ gia đình, nam giới làm gì, nữ giới làm gì? Quá đơn giản. Ai mà chẳng biết: nam thì làm những công việc nặng, đòi hỏi nhiều sức lực, còn nữ thì làm những công việc đòi hỏi phải khéo léo, nhẹ nhàng. Cụ thể hơn, trong hộ gia đình nông dân, nam giới là phải phụ trách việc cày bừa, còn việc cấy hay nhổ cỏ thì hiển nhiên là phải nữ rồi. Mà như thế thì công bằng quá rồi còn gì! “Chồng cày, vợ cấy, con trâu đi bừa”. Các cụ chả có câu đó thôi. Cần gì phải phân tích cho mệt. Ấy thế mà lại chẳng đơn giản tí nào, bởi vì nói đến phân công lao động theo giới không có nghĩa là chỉ nói đến việc cày cấy sản xuất (đây tất nhiên là việc chính rồi, nhưng đâu chỉ phải có thế) còn phải chăm sóc con cái, nấu nướng, giặt giũ, có khi còn phải chăm sóc bố mẹ ốm, phải đi đám nọ, đám kia, phải đi thăm bạn bè, họ hàng, rồi phải đi họp hành với làng với bản nữa chứ, 156 cũng là công là việc cả. Mà đã là việc thì phải mất thời gian, mất công sức. Thế là phải có sự phân công để thực hiện những công việc đó. Việc phân công này không hề đơn giản chút nào. Nó tùy thuộc rất nhiều vào hoàn cảnh xã hội và văn hóa. Thậm chí từ cộng đồng này sang cộng đồng khác đã không còn giống nhau nữa. Sự phân công này có thể rất linh hoạt và có thể thay đổi theo hoàn cảnh gia đình. Tuy nhiên, dù thế nào thì trong cuộc sống hàng ngày cũng có một cách thức phân chia công việc nhất định giữa nam và nữ trong gia đình. Phân tích phân công lao động theo nam và nữ như thế nào? Có nhiều mức độ phân tích khác nhau, tùy theo lượng thông tin cần thu thập được, có phân tích chỉ dừng ở mức xem xét sự phân công lao động giữa vợ và chồng. Có phân tích lại phải nhìn nhận đến cả những loại công việc mà trẻ em trai và trẻ em gái hay các cụ ông và các cụ bà đảm nhiệm trong hộ gia đình. Dù thế nào, quan trọng nhất là phải xem xét các khía cạnh sau: Phụ nữ làm những công việc gì, quỹ thời gian của họ được sử dụng ra sao? Nam giới làm những công việc gì, quỹ thời gian của họ được sử dụng ra sao? Sự phân công lao động này có liên quan gì tới việc đạt được các mục tiêu của dự án/ hoạt động? Hoạt động/dự án đưa ra có ảnh hưởng gì tới việc sử dụng thời gian của từng giới hay không? Hoạt động khuyến nông hay dự án phát triển cho một vùng nào đó liên quan rất nhiều tới sự phân công lao động theo giới ở vùng ấy. Rõ ràng trong những trường hợp trên, khối lượng công việc của người phụ nữ sẽ ngăn trở việc họ tham gia vào các dự án hay chương trình. Mà nếu họ có tham gia được vào các hoạt động như họp hành hay tập huấn thì có nghĩa là họ sẽ phải dành ít thời gian hơn cho những công việc mà họ vẫn đảm nhiệm. Việc lập kế hoạch dự án phải tính đến những chuyện đó thì mới có thể dự báo được ai là người chịu tác động của dự án và đưa ra được những biện pháp cụ thể để giúp phụ nữ tham gia tốt hơn vào dự án cần thiết. Hiểu biết về phân công lao động theo giới để làm gì? Việc gia đình người ta phân chia công việc thế nào thì liên quan gì tới chúng ta? Khi một dự án hay một hoạt động phát triển nào đó được đưa ra thì đòi hỏi có sự tham gia của các thành viên trong cộng đồng. Chúng ta cổ động sự tham gia tích cực của mọi thành viên, không kể già trẻ, gái trai. Chúng ta mong muốn phụ nữ cũng tham gia đầy đủ và tích cực chẳng khác gì nam giới vào các họat động đó. Thế mà chúng ta lại đưa vào kế hoạch những hoạt động diễn ra đúng vào những lúc phụ nữ phải làm những công việc vì sự sống còn của gia đình họ như là đi lấy nước và lấy củi chẳng hạn. Đương nhiên là chẳng mấy phụ nữ sẽ bảo 157 chồng đi làm những việc đó để mình đi họp hay đi tham gia dự án. Kết quả là phụ nữ chẳng tham gia gì hết, mặc cho chúng ta hô hào. Hay trường hợp khác, chúng ta muốn giới thiệu kỹ thuật gieo trồng hay chăm sóc gia súc cho bà con. Nếu chúng ta không nắm được ai làm việc gì trong gia đình, không khéo lớp học kỹ thuật mới sẽ chỉ toàn những học viên chẳng làm cái việc họ được học bao giờ. Mà như thế họ làm sao nhớ được cần phải làm gì. Thế là chúng ta tổ chức được một lớp học rất vui vẻ nhưng mà phí công, phí thời gian của cả người học lẫn người dạy. Mà thậm chí đôi khi lại còn nguy hiểm nữa chứ. Chúng ta thử xem mấy câu chuyện sau đây: Câu chuyện thứ nhất Có gia đình mở trang trại nuôi gà, chồng đi tập huấn , mua thuốc tiêm phòng về đến nhà, chồng không tiêm cho gà mà chồng đi họp tại xã, chồng dặn vợ ở nhà phải tiêm cho gà, mỗi con 1 cc thuốc, không phân biệt gà to hay gà nhỏ cách tiêm, sau 1 đêm gia đình bị chết mấy chục con gà mà trong khi đó là gà đang khỏe.. Từ đó gia đình và hàng xóm không dám tiêm cho gia súc, gia cầm và kể cả tiêm phòng. (Giàng Thị Phí, Lai Châu: Báo cáo Giới và phát triển tại huyện Tủa Chùa, Lai Châu) Câu chuyện thứ hai Tập huấn về phòng trừ rầy cho lúa xuân, tham gia tập huấn là nam giới nhưng nữ giới đi mua thuốc về phun và đã mua Wofatôc và phun ngay vào chiều nắng trong khi đó kỹ thuật hướng dẫn mua Trebon và phun vào chiều mát, hậu quả rầy không chết mà còn phát triển nhiều hơn. (Trần Thị Thanh, Sơn La: Báo cáo Giới và phát triển tại xã Chiềng Cọ, thị xã Sơn La) Đây mới chỉ là hai trong vô số những câu chuyện vẫn xảy ra do không tính toán tới sự phân công lao động theo giới. Hy vọng hai ví dụ này phần nào cho thấy tại sao cần phải phải nắm được cách thức tổ chức công việc trong hộ gia đình hay sự phân công giữa nam và nữ trong hộ gia đình ấy. Không chỉ có thế, việc phân tích như vậy còn cho ta biết gánh nặng công việc của phụ nữ có là quá lớn hay không và liệu có cần những biện pháp cụ thể để cải thiện tình hình đó hay không. Như vậy, trước khi thực hiện một chương trình, dự án nào đó, việc cùng với cộng đồng phân tích phân công lao động theo giới sẽ giúp cho các thành viên trong cộng đồng (kể cả nam và nữ giới) và cán bộ dự án hiểu được cần xây dựng dự án như thế nào cho phù hợp nhất. Qua đó sẽ xác định được: - Ai là đối tượng tham gia thích hợp nhất; - Họ sẽ gặp khó khăn gì khi tham gia dự áma, hoặc các chương trình khuyến nông 158 - Và cần làm gì để tháo gỡ những khó khăn ấy, tạo điều kiện cho họ tham gia. Bên cạnh đó, việc này còn giúp ta thấy trước được những tác động (tích cực hay tiêu cực) của dự án đối với nam giới và phụ nữ, từ đó tránh đi những yếu tố tiêu cực và phát huy những tác động tích cực. 6.2.3. Xây dựng các hoạt động khuyến nông dành cho phụ nữ Vậy làm thế nào để đưa phụ nữ vào các hoạt động khuyến nông? đó là một nhiệm vụ rất khó khăn đối với người cán bộ khuyến nông nhưng vì tầm quan trọng của phụ nữ trong sự nghiệp phát triển nông thôn, người cán bộ khuyến nông lại càng phải cố gắng tổ chức cho họ tham gia những chương trình này. Đừng bao giờ nghĩ rằng phụ nữ nông thôn thấp kém hơn so với nam giới. Bản thân họ còn chứa đầy nghị lực và những kỹ năng khác nhau. Hãy cố gắng động viên những khả năng tiềm tàng trong họ. Ví dụ; khuyến khích họ đi dự các cuộc họp, tham gia các hoạt động trình diễn hoặc đi tham quan. Phụ nữ có những trách nhiệm riêng trong gia đình và xã hội. Cần phải tìm hiểu vai trò của phụ nữ và phải nhạy cảm đối nhu cầu của họ ttước khi đưa họ tham gia cấc hoạt động khuyến nông. Cần tổ chức những dự án khuyến nông có tác dụng nâng cao vai trò của phụ nữ trong xã hội nông thôn, những dự án đó bao gồm. - Những dự án tổ chức: Để xây dựng và củng cố những tổ chức ở địa phương đại diện cho quyền lợi của phụ nữ và khuyến khích chị em tiến hành những hoạt động của riêng mình(ví dụ: Hội phụ nữ, Câu lạc bộ phụ nữ...) - Những dự án sản xuất: Để trực tiếp hỗ trợ phụ nữ phát triển những hoạt động sản xuất nông nghiệp thuộc trách nhiệm họ (ví dụ:Trồng cây lương thực...) - Những dự án chăm sóc sức khoẻ: Để hướng dẫn phương pháp, trang bị cho chị em những phương tiện chăm sóc con cái (ví dụ : chăm sóc sức khoẻ ban đầu, chống suy dinh dưỡng cho trẻ em ...) - Những dự án tăng thu nhập: Để giúp chị em tăng thu nhập cho gia đình (ví dụ: Chăn nuôi lợn gà, nuôi ong, phát triển ngành nghề phụ..) Hiện nay một số các chương trình khuyến nông đã quan tâm đến phụ nữ, như thành lập các tổ tín dụng cho phụ nữ vay vốn, hay các chương trình tập huấn đều xây dựng các tiêu chí gần như bắt buộc có sự tham gia của phụ nữ nên đã phần nào cải thiện được tình thế của phụ nữ Cho đến nay, nam giới, với tư cách là người chủ gia đình thường được nhận quá nhiều từ các chương trình khuyến nông. Trong khi đó, hiếm khi phụ nữ được động viên và tạo điều kiện để có một vai trò thực sự ngang bằng với nam giơí trong các chương trình khuyến nông. Nhưng trong thực tế, phụ nữ có những đóng góp quan trọng cho sự nghiệp phát triển nông thôn. Nhiệm vụ của người cán bộ khuyến nông là phải giúp đỡ để họ có thể có được vai trò xứng đáng với những đóng góp đó. 159 PHỤ LỤC SỔ GHI CHÉP NÔNG HỘ Họ và tên chủ hộ : Họ tên vợ Thôn: Xã: Huyện: Tỉnh .... 160 PHẦN 1. GHI CHÉP TÌNH HÌNH CHUNG I. Nhân khẩu, lao động 1. Họ tên chủ hộ : Năm sinh: 2. Dân tộc: 3. Số người trong gia đình: Nam: Nữ: 4. Lao động chính: 5. Lao động phụ: II. Diện tích đất đai 1. Tổng diện tích đất : 2. Đất vườn : 3. Đất nương rẫy : 4. Đất bãi : 5. Đất ruộng : Ruộng 1 vụ : Ruộng 2 vụ : 6. Đất khác : III. Trồng trọt 1. Vụ xuân năm............... Giống Diện tích (sào) Ngày gieo Ngày cấy Ngày trỗ Ngày thu hoạch Năng suất (tạ/sào) Sản lượng (tạ) Ghi chú TG1 TG5 Đậu tương Ngô 161 2. Chi phí vụ xuân năm........ Hạng mục TG1 TG5 Đậu tương Ngô Số lượng Thành tiền (đ) Số lượng Thành tiền (đ) Số lượng Thành tiền (đ) Số lượng Thành tiền (đ) Phân chuồng ure Supelân NPK Ka ly Thuốc sâu Chi khác IV. Chăn nuôi 1. Phần thu Giống Ngày mua Sốlượng Trọng lượng (kg) Ngày bán Số lượng (con) Trọng lượng (kg) Giá bán (đ) Thành tiền (đ) Lợn 15/2/2003 4 60 20/6 6 550 4.900.000 Gà Vịt 2. Phần chi Hạng mục Lợn Gà Vịt Ngan Số lượng Thành tiền (đ) Số lượng Thành tiền (đ) Số lượng Thành tiền (đ) Số lượng Thành tiền (đ) 162 Giống Thức ăn (ngô) Cám gạo Cám tổng hợp Thuốc tiêm phòng Thuốc chữa bệnh 163 TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Nguyễn Sinh Cúc. Nông nghiệp Việt nam, NXB Thống kê Hà Nội 1995. 2. Trần Văn Hà & Nguyễn Khánh Quắc. Phương pháp khoa học học và làm của kĩ sư nông lâm nghiệp. Hà Nội 1995. 3. Chanoch Jacobsen. Nguyên lý và phương pháp khuyến nông, NXB Nông nghiệp Hà Nội 1996. 4. Trần Văn Hà & Nguyễn Khánh Quắc. Khuyến nông học, NXB Nông nghiệp. Hà Nội 1997. 5. Hội thảo quốc gia về khuyến nông và khuyến lâm. Chương trình phát triển nông thôn miền núi Việt nam – Thụy điển . NXB Nông nghiệp. Hà Nội 1998 6. A.W. Van den Ban & H.S. Hawkins – Người dịch: Nguyễn Văn Linh. Khuyến nông, NXB Nông nghiệp. Hà Nội 1999. 7. Khuyến nông Thái nguyên với sự tham gia của nông dân. NXB nông nghiệp - Hà Nội 2001. 8. Dự án tăng cường khả năng tư vấn cấp bộ (MRDP). Sổ tay phương pháp thông tin khuyến nông. NXB Nông nghiệp Hà Nội 2001. 9. Dự án phát triển lâm nghiệp xã hội Sông Đà. Vấn đề giới và công tác phát triển nông thôn. Hà Nội 2001. 10. Võ Hùng, Đinh Đức Thuận. Bài giảng Khuyến nông lâm. Chương trình hỗ trợ lâm nghiệp xã hội. Hà Nội năm 2002. 11. Hội thảo quốc gia về phương pháp khuyến nông có sự tham gia của người dân. Bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn. Hà Nội 2002. 12. Nguyễn Văn Long và cộng sự. Trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội. Giáo trình khuyến nông. NXB Nông nghiệp năm 2005. 13. Trung tâm Khuyến nông Quốc gia. Tài liệu tập huấn phương pháp khuyến nông. NXB Nông nghiệp. Hà Nội năm 2007. 14. Michael Carbon (1998) Kỹ năng điều khiển cuộc họp theo phương pháp có sự tham gia, Lê Thị Nhâm dịch, NXB Nông nghiệp, Hà Nội. 164
File đính kèm:
- bai_giang_khuyen_nong_pham_thach.pdf